Vương quốc Phù Nam là vương quốc
đầu tiên h́nh thành tại Đông Nam châu Á, tồn tại từ đầu thế kỷ thứ
1 đến thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên.
Chúng ta có thể khẳng định rằng
xă hội văn minh đă hiện hữu tại vùng đất này rất lâu trước khi
vương quốc được thành lập.
Lịch sử bắt đầu từ khoảng
năm thứ nhứt sau Công nguyên khi tại châu Âu, Đại Đế Claudius ra sức chinh phục
đất Anh Cát Lợi và tại Trung Hoa là nhà Tây Hán.
Theo truyền thuyết th́ ngày xưa có một
vị giáo sĩ anh hùng (Brahman) người Ấn Độ tên là Kaundinya được thần
linh chỉ đường xuống thuyền xuôi về hướng đông. Sau một cuộc
hành tŕnh đầy gian truân, thuyền của Kaundinya đến được đất
liền của đồng bằng sông Cửu Long.
Bỗng từ đất liền xuất hiện
một mỹ nhân trên chiếc thuyền nan bơi ra chặn thuyền của Kaundinya lại.
Mỹ nữ này là Nữ Chúa Soma, con gái của vua Rắn Hổ mười đầu. Trận
thư hùng diễn ra giữa anh hùng và giai nhân.
Nhờ phép thuật thần thông nên Kaundinya thắng
trận. Nữ chúa Soma cầu ḥa. Sau đó không lâu hai người yêu rồi cưới nhau
sinh ra một người con trai. Người con trai này trở thành vị vua đầu tiên
của Vương quốc Phù-Nam lấy hiệu là Kampu.
Kinh đô trù phú của vương quốc được
xây dựng tại thành Vyadhapura. Hầu hết những dữ kiện liên quan đến vương
quốc cổ nhất Đông Nam Á này đều đến từ sử
liệu Trung Hoa và di vật khai quật được ở Óc-Eo. Chính v́ thế tên các vương
triều thường là do phiên âm ra tiếng Hán. Vào năm 245 sau Công nguyên nhà Hán Trung Hoa sai sứ
giả là K’ang T’ai đi kinh lư vương quốc Phù Nam.
Ông đă mô tả là vương quốc này đă
biết cách luyện kim, kinh đô Vyadhapura có xây thành bằng gạch kiên cố chung quanh, có
hệ thống kinh đào để thuyền bè có thể đi xuyên qua lănh thổ. K’ang
T’ai cũng nói rằng vương quốc Phù Nam
có thư viện với nhiều sách vở chữ Phạn, có luật lệ, hệ thống
thâu thuế và nông nghiệp, thương măi đều phát triển. Thường th́ người
Hoa có tục lệ khinh khi những dân tộc không phải là Hán tộc.
K’ang T’ai đă kết luận rằng
người Phù Nam là một dân tộc man di, nước da đen đúa xấu xí, tóc quăn
và đa số ở truồng, đi chân không.
Ông sứ giả có than phiền điều
này với quốc vương Phù Nam
là vuaHun Fan Huang. Nhà vua sau đó ra lệnh cho tất cả thần dân của Ngài về sau phải
quấn vải vào phần dưới thân thể, tiền thân của chiếc sà-rong mà người
Thái, Miên và Mă Lai thường mặc ngày nay.
Những lời kể lại của thương
nhân các nơi khác lại tỏ ra thán phục nền văn minh và sự hùng cường của
Phù Nam. Họ kể rằng
giới quí tộc Phù Nam ăn mặc diêm dúa, ở cung điện nguy nga bật nhất và
nước Phù Nam có rất nhiều đồ châu bảo vàng bạc quí giá. Vương quốc
sử dụng chữ Phạn cổ Sanscrit của Ấn Độ trong công việc hành chánh và
thương măi.
Trong ṿng 300 năm sau ngày lập quốc, Phù
Nam đă có một hạm đội
chiến thuyền và quân lực hùng mạnh. Vương quốc Phù Nam đă chinh phục được
hầu như toàn thể những khu dân cư của vùng Mă Lai -Thái lan - Miên và nam Miến Điện
để kiểm soát đường hàng hải của các thương thuyền giữa
Trung Hoa và Ấn Độ.
Hào quang cường thịnh và cách tổ chức
hành chánh của Phù Nam đă làm gương mẫu cho những nền văn minh sau này như
là tiểu vương quốc Sri Vijaya (Palembang), Sailendra ở Java Indonesia, và Malacca góp phần
truyền bá văn minh Ấn Độ đến những thành phố, bộ lạc phiên thuộc
dưới quyền kiểm soát của Phù Nam.
Óc-Eo ngày xưa là một thương cảng
trù phú có nhiều thương thuyền ghé lại. Vào thời điểm này thương gia
đến Óc-Eo tấp nập từ đông sang tây: Đế quốc La Mă qua Ấn Độ và Trung
Hoa. Ngư ời ta đă t́m được những đồng tiền cổ của La Mă
tại đây. Con của Hun Fan Huang là Fan-Shih-Man lên nối ngôi khoảng đầu thế kỷ
thứ 3. Tiếp theo là các vua Hun Tien và Hun Phan Fan cha truyền con nối. Vua Hun Phan Fan là một
vị minh quân trị v́ từ cuối thế kỷ thứ 3 qua thế kỷ thứ 4.
Ông nới rộng lănh thổ, làm hùng mạnh
quốc gia và thọ 90 tuổi, không rơ năm nào. Con của vua Hun Phan Fan là Hun Phan Phan không thích
làm vua nên bỏ đi tu, nhường ngôi cho một viên tướng là Seray Mara sử Tàu gọi
là Fan Che Man. Vua Fan Che Man nới rộng lănh thổ Phù Nam ra gấp đôi diện tích cũ.
Ông đă băng hà vào khoảng năm 204-210. Sau cái chết của vua Fan Che Man triều đ́nh
Phù Nam rơi vào cảnh rối
loạn liên tiếp.
Người cháu của vua là Fan Chan giết
chết thái tử con của vua trước để chiếm ngôi. Hai mươi năm sau
một người con của vua Fan Che Man là Asachi lại giết được Fan Chan để
lấy lại ngai vàng. Sau đó không lâu Asachi lại bị tướng Siun giết để
lên làm vua. Hoàn cảnh nào đưa vua Chandana lên ngôi vương không được sử liệu
Trung Hoa nhắc đến.
Có những chổ trống trong lịch sử
những nước lân bang mà có lẽ v́ trùng họp với những biến động chính
trị tại triều đ́nh Trung Qu ốc nên sử gia Trung Hoa đă không thể điều
nghiên ghi chép
.Năm 357 Phù Nam dưới triều vua Chandana sang cầu phong Trung Hoa và
xin triều cống. Một điều đáng nói là mặc dù những dân tộc tại Đông
Nam châu Á bị ảnh hưởng sâu đậm của văn minh Ấn Độ, nhưng người
Ấn Độ và lịch sử Ấn Độ hoàn toàn không quan tâm đến thế giới phía
đông này cho đến măi thế kỷ 20 chính phủ và nhân dân Ấn Độ mới t́m hiểu
thêm về một vùng văn minh Ấn Độ đă có mặt tại đây từ lâu.
Lịch
sử Ấn Độ không đếm xỉa ǵ đến vùng Đông Nam châu Á có ảnh hưởng văn hóa Ấn trong quá khứ.
Ngược lại người Trung Hoa từ hơn 2000 năm nay luôn xem vùng biển phương
nam thuộc ảnh hưởng của Thiên triều.
Họ cho sứ giả đi điều tra
và ghi chép cẩn thận những điều mắt thấy tai nghe. Từ lúc ban đầu
ấy các nước đông nam Á đều đă có liên hệ ngoại giao với Trung Hoa
qua h́nh thức cống sứ và xin phong. Trong thâm tâm tầng lớp lănh đạo Trung Hoa ,
Thiên triều có thẩm quyền và nhiệm vụ can thiệp tại vùng nam châu Á nếu cần.
Lịch sử đă chứng minh điều đó và gần đây nhất là Trung quốc
đă đánh vào miền Bắc Việt nam năm 1979 v́ bất đồng về chủ quyền
và ảnh hưởng tại vương quốc Kampuchia.
Nhưng cũng nhờ thế mà ta có những
sử liệu quí giá từ thời thượng cổ để t́m hiểu lịch sử
của những quốc gia phương nam của Trung Qu ốc trong đó có Việt Nam ngày nay và Phù Nam
xưa.
Những thần dân của Phù Nam xưa thuộc
giống người thổ da đen Khmer, Môn-Khmer, Miến, và dân đa đảo Malay-indônêsiên.
Ngôn ngữ sử dụng thuộc hệ Ấn độ pha trộn với nhiều sắc
thái, thổ ngữ địa phương.
Người nước Phù Nam theo đạo Bà La Môn và Phật giáo. Vương quốc
Phù Nam đạt đến
sự cực thịnh dưới triều vua Kaundinya Jajavarman (478-514).
Vua Rudravaman (514-539) có sai sứ sang Trung Hoa triều
cống và cho biết Ngài có một lọn tóc xá lợi của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Trong
thời gian này các vị cao tăng Phật giáo người Phù Nam đă dịch cuốn Phật Kinh Vimutti Magga sang chữ
Hán.
Ngày nay cuốn kinh này chỉ tồn tại
bằng chữ Hán v́ bản chánh chữ Phạn đă bị thất lạc. Thế rồi
sau đó vương quốc Phù Nam bị suy tàn bởi
nội loạn và sự nổi dậy của dân tộc Khmer (một xứ phiên thuộc của
Phù Nam), tràn sang từ vùng đất
thuộc nước Lào bây giờ. Một yếu tố khác góp phần vào sự suy tàn của
Phù Nam là nền kinh tế của
quốc gia đă đi xuống từ sau những tiến bộ về kỹ thuật hàng
hải.
Thuyền buôn vào thời điểm này đă
có thể đi xa bờ và ít có nhu cầu ghé lại Óc-Eo trên đường đi qua Trung Qu
ốc. Năm 539 vương quốc Phù Nam bị buộc phải triều cống cho người
Khmer lúc đó là Vương quốc Chân Lạp. Đến năm 627 Phù Nam bị người Khmer
dưới quyền vua Chân Lạp là Bhavavarman xóa hẳn tên trên bản đồ. Những
thần dân của Phù Nam bị
sát nhập vào vương quốc Khmer.
Hoàng gia của Phù Nam
dùng đường biển tị nạn sang đảo Java của Nam
Dương (Indonesia). Họ
sống âm thầm măi đến gần 200 năm sau, hậu duệ của nhóm người
này phát lên để dựng nên triều đại huy hoàng Sailendra. Các ông hoàng bà chúa của
ḍng họ này lại kết hôn với các lănh chúa của các tiểu vương lân bang như
Mă Lai và nhiều đảo quốc trong vùng.
Cho đến ngày nay giới quí tộc, hoàng
gia các nước đa đảo như Mă Lai, Nam Dương
(Indonesia) đều có liên hệ huyết thống với
hoàng tộc nước Phù Nam của miền nam Việt
Nam.
Từ năm 550 trở
về sau cho đến khi chúa Nguyễn bành trướng thế lực đến miền
nam, người Khmer cai tri xứ này theo niên hiệu các vị vua Chân Lạp. Từ khi bị
mất nước về tay Chân Lạp người dân Phù Nam trở thành một dân tộc
lục địa, mất đi khả năng hàng hải. Ngày nay người Khmer nh́n nhận
các vương triều Phù Nam
là tổ tiên của dân tộc Khmer và là một phần của lịch sử Khmer.
Người Khmer c̣n được chúng ta biết
đến qua nhiều danh xưng Cao Miên , Chân Lạp, Cam bốt và
Kampuchia. Vào lúc người Việt di cư đến vùng đất miền Nam vào năm 1800 người ta t́m thấy một
pho tượng nữ vương bằng cẩm thạch bị chôn vùi từ thế kỷ
thứ 5 hoặc thứ 6 sau Công nguyên.
Có thuyết cho rằng đó là tượng
quốc mẫu vương quốc Phù Nam
là Soma. Người Việt kính cẩn lập đền thờ bà tại núi Sam tỉnh An
Giang gọi là đền thờ Bà Chúa Xứ. Hàng năm cư dân Hoa, Việt, Miên lui tới
cúng bái, hương khói vô cùng linh thiêng. Sự việc đó cho thấy ḷng biết ơn của
những người đến sau đối với những đợt người đă
khai phá vùng đất này trước dân tộc Việt Nam.
II Vương quốc Chân Lạp làm chủ
khu vực miền nam Việt Nam
(thế kỷ thứ 7-thế kỷ 17 sau Công Nguyên)
Năm 600-611 có triều vua Mahendravarman tiếp
theo là vua Isanavarman đóng đô tại Ankor Borey. Năm 750 vua Jayavaman I mở rộng lănh thổ,
xây thêm đền đài. Ngài cho khẩn hoang và trồng lúa cùng các loại hoa màu dọc bờ
sông Cửu Long xuống tới miền Tây Việt Nam
ngày nay.
Khoảng năm 780 ḍng Vương cũ
của Phù Nam giờ thành Vương Tri ều Sailendra của đảo Java (Indonesia) trở
nên hùng mạnh đă dùng binh lực ép buộc vương quốc Chân Lạp của người
Khmer phải triều cống và lệ thuộc. Từ năm 800 đến 887 nước
chân Lạp dưới sự lănh đạo của vua Jayavaman II (802-887) và Jayavaman III (850-887)
đă giành lại được độc lập từ ḍng Sailendra của Java. Vương
quốc Chân Lạp được đổi tên là Kampuchia.
Trong thời này những thế lực
phong kiến có khuynh hướng chia đế quốc Chân lạp thành Lục Chân Lạp và
Thủy Chân Lạp (vùng đồng bằng miền nam tức Phù Nam xưa). Jayavaman II c̣n có tên là Puskarak đă từng bị
bắt trong trận chiến, và bị đày qua đảo Java. Sau ông trốn thoát về tổ
chức nghĩa quân giải phóng đất nước chống lại quân chiếm đóng
Java và quân người Chăm nước Champa ( Trung Vi ệt ngày nay). Năm 803 Puskarak lên ngôi
Vương lấy hiệu là Jayavaman II rồi tuyên bố độc lập.
Tuy nhiên quyền lực của đảo quốc
Java không ngừng ḍm ngó vương quốc Kampuchia của Jayavaman II. Trong suốt 50 năm trị
v́ ông đă dời đô 5 lần v́ chiến tranh với Java. Khi Jayavaman III qua đời không
con nối dơi nên một người bà con họ mẹ đă lên ngôi xưng vương hiệu
là Indravaman I (877-889).
Vua Indravaman I là một vị vua anh hùng, có tài
thao lược và cũng yêu nghệ thuật văn thư. Trong đời ông đă có công thống
nhất Lục Chân Lạp với Thủy Chân Lạp và xây dựng thêm nhiều thành phố
lớn, khuyến khích nông nghiệp và thương măi. Indravaman I cũng khởi đầu
nới rộng Đế quốc Khmer (Kampuchia), thay đổi bản đồ chính trị trên
bán đảo Đông Dương bằng những vơ công nổi bật.
Con của Indravaman I nối sự nghiệp
của cha xưng hiệu là Yaksovaman I (889-900).Yaksovaman I dời kinh đô từ Hari Hara Ley đến
Yaso Tha Bura trên cao nguyên Bakheng. Chính vào thời điểm này sự phú cường của Đế
quốc Kampuchia đă cho phép nhà vua khởi công nhiều công tŕnh kiến trúc vĩ đại
trong đó có Angkor Wat (Đế Thiên Đế Thích), đền đài Lo Ley, đền đài Phnom
Bok. Angkor Wat đă là một công tŕnh kiến trúc vĩ đại nhất của vùng Đông Nam Châu Á.
Nhà vua c̣n cho đào hồ Đông Baray dài 7 km ,
ngang 1800 km . Một công tŕnh vĩ đại vào thời đó. Những công tŕnh to tát này đa
phần nhờ vào hàng vạn tù binh và nô lệ bắt được từ những trận
chiến chinh phạt Xiêm và Lào. Suốt thế kỷ thứ 9 Đế quốc Khmer-Chân Lạp
có 6 triều vương đó là Hashavaman I (900-922), Isanavaman II (922-928), Jayavaman IV (928-941),Harshavaman
II (941-944), Rajendravaman II (944-968), và Jayavaman V (968-1001). Rajendravaman II vốn là một vị tướng
của vương quốc sau khi gôm quyền lực vào tay đă lên ngôi vương tại
Angkor Wat(Đế Thiên Đế Thích).
Trong 24 năm cầm quyền
ông cho xây thêm nhiều đền tháp lâu đài và đánh bại quân Chăm của Vương
quốc Chiêm Thành (Champa, Trung Vi ệt). Khi nhà vua băng hà con là Jayavaman Vlên thay. Sau cái chết
của Jayavaman V năm 1001 toàn lănh thổ Chân Lạp rơi vào cảnh đại loạn kéo
dài 9 năm.
Lănh chúa Suryavaman I (1002-1050) đă đàn áp được
những thế lực khác và thống nhất ngôi Vương tại Angkor
Wat. Từ năm 1050 đến 1177 đế quốc Khmer tiếp tục bành trướng.
Phía bắc giáp Trung Hoa , phía nam giáp biển Xiêm La (Thái Lan), phía tây giáp Miến Điện, phía đông
giáp Chiêm Thành.
Trong thời gian này hùng cường nhất
là vua Suryavaman II (1113-1150). Nhà vua xông pha trận mạc để lại nhiều vơ công oai hùng.
Ngài đă đụng trận với Trung Hoa , Đại Việt, Chiêm Thành, Xiêm và Miến-Mường.
Ngài đă chết tại sa trường một
cách oanh liệt. Năm 1177 quân Chăm của Vương Qu ốc Chiêm Thành (Champa) xâm lăng
và giết được vua Khmer là Tri-Bhuvanadit-yavarman khởi đầu cho quá tŕnh suy tàn của
đế quốc Khmer từ thế kỷ thứ 13.
Trên thế giới lúc đó là
thời điểm đế quốc Mông Cổ đang bành trướng vào Ấn Độ phía
Tây, xâm chiếm Trung Hoa phía Bắc và phía Đông hai vương quốc Đại Việt và Chiêm Thành
đang nắm tay hợp sức đẩy lui đoàn quân viễn chinh Mông Cổ.
Sự suy nhược của Đế quốc
Khmer vào thế kỷ 13 tạo cơ hội cho người Thái (Xiêm) nổi dậy giành độc
lập. Danh xưng ‘Thái’ có nghĩa là ‘tự do’ không c̣n nô lệ nữa. Quân
đội người Thái đă tấn công đế đô Angkor (trong khoảng thời gian
1431-1432) và tàn sát hàng mấy vạn người gà chó không chừa để trả thù sự
tàn bạo hà khắc mà người Khmer đă áp đặt lên họ trước kia.
Sự tàn sát đă khủng khiếp đến
độ không c̣n ai sống sót để nhớ lại nơi chốn này. Đế đô Angkor
đă bị quên lăng bởi chính người Khmer trong suốt 500 năm măi đến thế
kỷ 19, ông Henri Mouhot , người Pháp, trong lúc đi thám hiểm rừng sâu mới t́m lại
phế tích Angkor Wat năm 1860.
Năm 1401? vua Chân Lạp Ponhea Yat dời đô
về Phnom Penh (Nam Vang) đánh
dấu một triều đại mới, chấm dứt kỷ nguyên Angkor.
Chữ Phạn Ấn độ cổ Sanscrit không c̣n được sử dụng nữa.
Lối chữ mới theo thể Pali giống Mă Lai được thay vào.
Toàn thể những ḍng dơi vương tôn, quí
tộc cũ theo văn hoá Ấn Độ biết đọc, viết chữ Sanscrit đă bị
người Thái tận diệt. Năm 1528 vua Ong Chân I lại phải dời đô về Lovek
( La Bích ). Đến năm 1593 quân Xiêm lại tấn công La Bích. T ừ đó người Thái nắm
quyền phế lập các vua chúa Khmer.
III. Chúa Nguyễn bành trướng thế lực
của người Việt tại Thủy Chân Lạp (thế kỷ 17-18 sau Công Nguyên)
Một biến cố chính trị tại phương
đông, miền cực nam nước Đại Việt đă làm thay đổi t́nh thế lúc
đó là sự xuất hiện của chúa Nguyễn Hoàng, truyền nhân của Nguyễn Bặc,
Nguyễn Trăi và Nguyễn Kim. Chính sách Nam
Tiến của các chúa Nguyễn sau đó nhằm để chống lại thế lực
của chúa Trịnh ở Thăng Long tạo nên áp lực to tát cho hai lân quốc Champa và Chân
Lạp.
<!--[if !supportLineBreakNewLine]—
<!--[endif]-->
Trong khoảng thời gian từ năm 1611-1653
vương quốc Champa đă bị dồn nén bởi thế lực của chúa Nguyễn
nên co cụm lại một vùng nhỏ từ Nha Trang đến Phan Thi ết. Không dừng
lại ở Champa, chúa Nguyễn bắt đầu ḍm ngó đến Chân Lạp.
Sau một thời gian ở Xiêm làm con tin, Chey
Chetta II về Chân Lạp lên ngôi vương năm 1618. Tân vương cải canh mọi việc
và mang ḷng không không phục người Xiêm. Chey Chetta II dời đô về Oudong (Long Úc), thuộc
tỉnh Kompong Luông. Tân vương tổ chức quân đội có thực lực.
Mấy năm liền không thấy Chân Lạp
dâng phẩm vật triều cống, Xiêm vương mang quân tấn công vào Chân Lạp hai lần
đều bị quân của Chey Chetta II đẩy lui. Tuy nhiên về lâu về dài Chân Lạp
sẽ không thể đương đầu với quân Xiêm. Chey Chetta II quyết định
nhờ vào thế lực của chúa Nguyễn Đàng Trong, lúc đó là Săi Vương Nguy ễn
Phúc Nguyên
(1613-1635).
Quốc sử Cao Miên đă chép
như sau về giai đoạn này: ‘Vua Xiêm muốn tái lập uy quyền trên đất
Cao Miên , nên xua binh tấn công. Năm 1623, một đạo quân từ phía Bắc xâm nhập
lănh thổ, bị quốc vương Chey Chetta II thân chinh đánh tan ră ở Bâribaur cách biển
Hồ lối 50 km . Đạo thứ hai tiến vào tỉnh P. Meas bị Hoàng đệ Prah Outey
đẩy lui. Năm sau, 1624 quân Xiêm theo đường biển đổ bộ miền duyên
hải, bị phản công dữ dội phải rút về.
Để đề pḥng quân Xiêm quấy nhiễu,
quốc vương Chey Chetta II cưới một công chúa xứ Đàng Trong hầu dựa vào
thế lực của nhà Nguyễn ở Huế.’
Chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên đă quyết định
gả Hoàng Nữ Ngọc Vạn cho vua Cao Miên năm 1620. Chúa c̣n hai Hoàng nữ khác là Ngọc
Khoa gả cho vua Chiêm Pô Romê và Hoàng nữ Ngọc Hoa lại gả cho một thân vương
người Nhật Bổn.Vua Cao Miên mặt khác lại nghe truyền rằng Săi Vương
là người mộ đạo Phật, trong người có nhiều Phật tính nên muốn
kết t́nh gia đ́nh.
Đi theo hộ tống đám cưới bà Hoàng
Ngọc Vạn xinh đẹp là đông đảo quan lính người Việt của Săi Vương
trang bị khí giới, tàu thuyền có súng ống, thuyền được trang hoàng lộng
lẫy h́nh chim phượng mạ vàng.
Tham dự lễ cưới có nhiều người
ngoại quốc từ Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Nhựt Bổn, Ư Đại Lợi, Trung Hoa. Bà
Ngọc Vạn ngồi kiệu 8 người khiêng sánh duyên với vị vua hào hùng anh tuấn.
Hoàng nữ Ngọc Vạn được tấn phong Hoàng Hậu với tước hiệu
là Sô Dach Prea Peaccac Vodey Prea Voreac Khsattey.
Tiếp theo sau cuộc hôn nhân vương giả
này, bà Hoàng Ngọc Vạn đă xin với Hoàng phu cho nhiều người tùy tùng nắm giữ
chức quyền trong triều đ́nh Chân Lạp. Dưới sự bảo trợ của
Hoàng hậu Ngọc Vạn lưu dân người Việt từ Đàng Trong ồ ạt theo đường
biển vào lập nghiệp tại vùng Thủy Chân Lạp.
Họ làm nghề nông, buôn bán, tiểu công
nghiệp, đánh cá, thợ rèn v.v.. chỉ 3 năm sau, tức năm 1623 lưu dân Việt
định cư tại Thủy Chân Lạp lên đến 20,000 người. Săi vương
liền viết thư cho con rể xin ‘cho mượn’ đất tại Prey Nokor
(Sài G̣n) và Kas Krobey (Bến Nghé) để tiện việc thâu thuế người Việt tại
đây. Vua Cao Miên chấp thuận.
<!--[if !supportLineBreakNewLine]-->
<!--[endif]-->
Sau khi quốc vương Cao Miên băng hà chỉ
sau 5 năm lấy vợ Việt, toàn vùng Bà Rịa giáp giới Chiêm Thành, Kâmpéâp Srekatrey (Biên
Ḥa), Prey Nokor (Sài G̣n) và Kas Krobey (Bến Nghé) đều thuộc quyền người Việt
cai trị và thâu thuế. Từ sau khi vua Chey Chetta II băng hà các hoàng tử con của các bà
phi người Chân Lạp liên tiếp lên làm vua: Ponhea To (1629-1630), Ponhea Nu (1630-1640).
Sau cái chết mờ ám của vua Ponhea Nu năm
1640 quan phụ chính Prah Outey (là hoàng thúc của vua) đưa con ḿnh là Ang Non I (1640-1642) lên ngôi.
Vào năm 1642 một người con của vua Chey Chetta II liên hiệp với người Mă
Lai nổi dậy giết toàn gia hoàng thúc Prah Outey để lên ngôi xưng hiệu Ponhea Chan
I (1642-1659).
Sử Việt gọi vị vua này là Nặc
Ông Chân. Các hoàng thân thuộc phe cánh Ang Non I vào cung bà Hoàng Thái Hậu Ngọc Vạn xin cầu
viện chúa Hiền Vương Nguy ễn Phúc Tần (1648-1687).
Chúa Hiền nhân cơ hội có lời yêu cầu
nên hưng binh chinh phạt Chân Lạp vào tháng 10 năm 1658. Quân Chân Lạp thua to tại ngoài
khơi Bà Rịa và trận G̣ Bích. Quân Nguyễn tiến vào Nam
Vang bắt quốc vương N ặc Ông Chân bỏ vào cũi sắt đem về tỉnh
Quảng B́nh.
Vua Nặc Ông Chân chết tại đây. Chúa
Hiền đưa Hoàng tử So con trai bà Thái hậu Ngọc Vạn lên ngôi vua lấy hiệu
là Batom Réachea (1658-1672). Vào thời điểm này triều đ́nh Chân Lạp hợp thức
hóa chủ quyền của nhà Nguyễn tại Đồng Nai. Năm 1672 vua Batom Réachea bị ám
sát chết. Con trai là Ang Chey tức Nặc Ông Đài lên nối ngôi. Tân vương dựa thế
lực người Xiêm mang quân lấn ép vùng Đồng Nai.
Lưu dân người Việt kêu cứu triều
đ́nh chúa Nguyễn lúc đó đóng đô ở Kim Long. Chúa Hiền Vương Nguy ễn
Phúc Tần sai các tướng Nguyễn Dương Lâm cùng với Nguyễn Diên Thái và Văn
Sùng mang quân tới tận Oudong hỏi tội Nặc Ông Đài rồi đưa Ang Saur tức
Nặc Ông Thu hiệu Chey Chetta IV, em của Nặc Ông Đài lên ngôi Chính Vương ở Oudong
Lục Chân Lạp
. Chúa Hiền lại đồng thời cho
Ang Non tức Nặc Ông Nộn con trai thứ của bà Ngọc Vạn và vua Chey Chetta II làm Thứ
Vương vùng Đồng Nai –Mô Xoài. Vua Nặc Ông Nộn đóng đô tại Sài G̣n tức
Prey Nokor. Lúc đó là năm 1674. Cả hai vị vua Chân Lạp đều phải triều cống
xưng thần với chúa Nguyễn tại Kim Long. Vua Nặc Ông Nộn ở Sài G̣n đến
khi chết năm 1691 th́ toàn quyền cai trị tại đây thuộc về chúa Nguyễn.
IV. Các di thần nhà Minh xin định cư
tại Thủy Chân-Lạp vùng Biên Ḥa-Mỹ Tho.
Vào năm 1679 tức năm Khang Hy thứ 18
nhà Đại Thanh có di thần của nhà cựu Minh bên Tàu v́ không cự lại quân Thanh triều
đến xin hàng phục nhà Nguyễn. Bọn di thần nhà Minh gồm có Tổng binh Long Môn
Dương Ng ạn Địch, Phó tướng Hoàng Tiến, và Tổng Binh các phủ Cao, Lôi,
Liêm là Trần Thượng Xuyên, Phó tướng Trần An B́nh mang 3000 binh lính thủ hạ
và gia quyến trên 50 chiến thuyền đến cửa Tư Dung và Đà Nẵng xin được
làm thần dân của chúa Nguyễn. Chúa Hiền chấp thuận cho giữ nguyên binh hàm chức
tước rồi truyền cho vua Cao Miên cho phép người Minh vào định cư xứ
Đồng Nai và sau đó thay mặt cho nhà Nguyễn lấn dần đến Cần Thơ.
Nhờ đợt di cư này mà ảnh hưởng
của nhà Nguyễn tại đất Thủy Chân Lạp ngày càng to tát. Các tướng nhà Minh
giờ làm quan cho triều đ́nh nhà Nguyễn. Họ cũng góp phần xông pha trận mạc
mở rộng lănh thổ cho nhà Nguyễn, nổi bật là Thống Binh Trần Đại Định
con của Trần Thượng Xuyên triều chúa Ninh Vương. Người Minh vốn cùng
văn hóa với người Việt nên hợp nhau khai hoang khẩn đất, lập chợ,
xây dựng phố phường, buôn bán tấp nập. Những nơi như Gia Định, Biên
Ḥa, Thủ Đức, Cần Thơ không mấy chốc trở nên sầm uất vô cùng. Triều
đ́nh nhà Nguyễn lại được dịp có thêm dân thêm đất và thêm thuế thu
nhập.
Hiền Vương Nguy ễn Phúc Tần băng
hà năm 1687 ở ngôi 39 năm, Nghĩa Vương Nguy ễn Phúc Thái (c̣n gọi là Trăn)
lên thay (1687-1691). Nghĩa Vương dời đô về Phú Xuân (Huế). Trong thời gian chúa
mới lên ngôi có một di thần nhà Minh là Hoàng Tiến giết chủ tướng là Dương
Ng ạn Địch ở Mỹ Tho rồi tự xưng là Phấn Dũng Hổ Oai Tướng
Quân thống lĩnh quân sĩ Long Môn người Minh đóng đồn ở Định Tường.
Hoàng Tiến thả quân qua Cao Miên cướp của giết người. Vua Cao Miên là
Nặc Ông Thu bất b́nh v́ việc làm sai quấy này và ngờ là chủ ư của Thiên Vương
nhà Nguyễn. Vua Nặc Ông Thu quyết định bỏ triều cống và chuẩn bị
binh lính chống lại triều đ́nh nhà Nguyễn
Tháng Giêng năm 1690 Chúa Nghĩa sai lăo tướng
là Vạn Long mang quân đến Rạch Gầm dàn trận. Vạn Long dùng kế bắt được
Hoàng Tiến rồi xua quân qua Cao Miên đánh thốc tới Nam
Vang và Long Úc (thành Oudong).
Vua Cao Miên cả sợ dâng 30 thớt voi, 150
lạng vàng, 600 lạng bạc, 6 con tê giác để xin ḥa và giữ lệ triều cống
như xưa. Quan quân nhà Nguyễn rút về Phú Xuân tháng 8 năm đó. Chúa Nghĩa không thọ
lâu, ngài băng hà năm 1691 thọ 43 tuổi.<!--[if !supportLineBreakNewLine]--><!--[endif]-->
Năm 1698 chúa Minh Vương Nguy ễn Phúc
Chu (1691-1725) sai Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đi đánh
Cao Miên và kinh lược mấy tỉnh miền nam. Lễ Thành Hầu chia cắt giới phận,
canh cải địa điền, kiểm kê nhân khẩu, lập sổ đinh điền
cho có nề nếp. Lúc đó toàn miền nam có dân số 40,000 gia đ́nh (hộ) đất
đai mở ra 1000 dặm.
<!--[if !supportLineBreakNewLine]--><!--[endif]-->
Thành quả này đạt được trong
ṿng 70 năm. Sự trù phú của miền nam nhờ một phần vào sự tiếp sức
của di thần nhà Minh và chế độ bắt người thổ dân, các dân tộc miền
núi về làm nô lệ. Theo lời kể của người phương Tây th́ việc buôn
bán nô lệ để giúp người Việt canh tác có cả thuế nông nô của triều
đ́nh.
V. Căn Khẩu Quốc - Hà Tiên
Năm 1671 có người Minh tên là Mạc Cửu
quê ở Lôi Châu, Quảng Đông mang gia quyến binh lính 400 người và 10 chiếc thuyền
di cư sang Thủy Chân Lạp đổ bộ lên bờ biển Panthaimas vịnh Thái Lan. Mạc
Cửu đến Oudong xin yết kiến vua Nặc Ông Thu và ở lại hợp tác giữ
chức Óc Nha cho đến năm 1681. Lúc ấy thấy chính sự Chân Lạp rối ren, ông
xin vua Chân Lạp cho đi khai khẩn vùng đất hoang Panthaimas.
Vua thuận cho. Mặc Cửu chiêu tập
đám cướp biển lại mở ṣng bạc, chiêu mộ dân phiêu bạt chạy trốn
nhà Thanh về lập nên 7 xă là: Mán Khảm (Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột (Kampot), Hương
Úc (Konpong Som), Sài mạt (Cheal Meas), Linh Quỳnh (Rạch Giá) và Phú Quốc (Koh Tral).
Ngoài ra c̣n có người Ấn Độ, người
Nam Đảo, người Kinh, người Thái, người Cao Miên đến sinh sống. Thủ
phủ đặt tại Hà Tiên tức Căn Khẩu. Mạc Cử đặt tên vùng đất
của ḿnh là ‘Căn Khẩu Quốc’. Lănh địa này thuộc Chân Lạp nhưng
vua Chân Lạp không đủ sức cai quản nên được qui chế tự trị.
Không bao lâu Căn Khẩu Quốc của Mạc Cửu trở nên giàu có, người đi
vào buôn bán, cờ bạc, đổi chác tấp nập.
Thấy kinh tế vùng Căn Khẩu nổi
lên như sóng vua Xiêm chuẩn bị thôn tính vùng đất này. Năm 1678 quân Xiêm tràn sang cướp
phá bắt Mặc Cửu và gia quyến về Muang Galapuri (Vạn Tuế Sơn). Hai năm
sau nhân lúc nước Xiêm có loạn ông mang quyến thuộc trốn về lại Căn Khẩu.
Ông lại bắt tay khôi phục lại Căn
Khẩu. Mạc Cửu nhiều lần xin triều đ́nh Chân Lạp cứu nhưng Vương
triều Chân Lạp lúc đó quá yếu, tự giữ ḿnh c̣n không xong nên từ chối không
thể giúp ǵ cho họ Mạc. Năm 1711 Mạc Cửu cùng tùy tùng là Trương C ầu,
Lư Xá mang vàng lụa đến gỏ cửa Khuyết ở Huế xin thần phục chúa
Minh Vương Nguy ễn Phúc Chu (1691-1725).
Mạc Cửu được giữ chức
Tổng Binh toàn quyền cai trị xứ Căn Khẩu mà không phải nộp thuế cho triều
đ́nh. Nghe được tin này vua Xiêm cho 20,000 quân tấn công Căn Khẩu quốc, một
thuộc địa mới của nhà Nguyễn. Mạc Cửu thua chạy về Gia Định
xin triều đ́nh Huế cứu giúp. Quân Triều Nguyễn đánh đuổi người
Xiêm đi và trả lại toàn vẹn đất đai cho Mạc Cửu cai trị nhưng
đổi tên Căn Khẩu thành Hà Tiên Trấn với mục đích lưu lại dấu
ấn của triều đ́nh họ Nguyễn. Sử Cao Miên chép về chuyện này như
sau: ‘Năm 1710, sau khi quốc vương Thomo Réachea bỏ thủ đô, Nặc Ông Em lên
ngôi.
Đây là lần thứ nh́ ngài trị v́. Trong ba năm 1711-1716 và 1722, ngài đẩy lui
ba lần tấn công của Thomo Réachea nhờ quân Xiêm trợ giúp. Ngài nhờ triều đ́nh
Huế che chở và giúp về mặt quân sự. Ngài phó thác việc pḥng thủ các tỉnh
Peam (Hà Tiên), Kampot, Kampong Som cả cù lao Phú Quốc cho một người Trung Hoa tên Mạc
Cửu.
Họ Mặc gốc người Quảng Đông di cư sang Cao Miên sau khi bị
nhà Thanh lật đổ. Ông gầy dựng được sự nghiệp to tát nhờ mở
ṣng cờ bạc. Ông xây dựng một pháo đài ở Peam, tuyển mộ quân sĩ và thủy
thủ. Có lần một hạm đội Xiêm đến gần thị trấn định
đổ bộ giúp Thomo Réachéa bị quân Mặc Cửu tiêu diệt gần hết. Tuy nhiên
đến năm 1715, Mặc Cửu qui phục chúa Nguyễn, quốc vương Ang Em thuận
cho người Việt Nam kiểm soát bờ biển từ miền Nam đến Xiêm.
Về sau hoàng triều Cao Miên lấy lại
quyền hành trực tiếp hai tỉnh Kampot và Kompong Som, nhưng tỉnh Peam (Hà Tiên) và cù lao
Phú Quốc vẫn c̣n bị hậu duệ của Mặc Cửu cai trị cho vua Việt Nam’.
Mùa hạ năm 1735 Mạc Cửu chết,
hưởng thọ 81 tuổi. Ninh Vương Nguy ễn Phúc Thụ (có sử ghi là Trú:1725-1739)
phong ông làm Khai Trấn Thượng Trụ Quốc Đại Tướng Quân, tước Cửu
Lộc Hầu. Đến đời Minh mạng được phong làm Thần hiệu là Thọ
Công Thuận Mỹ Trung Đẳng Thần. Năm 1738 chúa Nguyễn Phúc Thụ ban cho ḍng họ
Mạc ‘Thất Diệp Phiên Hàn’ (bảy chữ quí tộc) nối đời vinh
hiển là: Thiên, Tử, Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.
Con trai Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ lên
nối quyền cai trị Hà Tiên. Con của Tứ là Mạc Công Du, Con của Du là Mạc Hầu
Lâm, con của Lâm là Mạc Bá B́nh, con của B́nh là Mạc Tử Khâm, con của Khâm là Mạc
Nam Lan. Bà Nam Lan tuyệt tự hết người thừa kế nhưng
cũng vừa tṛn bảy chữ vua ban.
VI. Vùng đất Méso-Longhor tức Mỹ Tho,
Vĩnh Long
Năm 1731 quân Chân Lạp đánh Gia Định.
Ninh Vương sai Tướng Trương Phư ớc Vĩnh và Cai Cơ Đạt Thành cùng
tướng quân Trần Đại Định (con của Trần Thượng Xuyên người Minh)
đem quân ra chống đỡ. Cai Cơ Đạt Thành bị quân Cao Miên giết ở Bến
Lức. Trần Đại Định mang quân bản bộ Long Môn đắp đồn Cây Mai ở
Sài g̣n để cầm cự.
Cai đội Nguyễn Cửu Triêm đem quân cứu
ứng đến Bến Lức, quân Miên lại rút về Tân An. Tháng 4 năm 1731 Trần Đại
Định đánh vào Lovek ( La Bích ). Cha con quốc vương Chân L ạp là Nặc Yêm (Ang Em) và
Nặc Tha (Satha II) xin nhường đất Mésa (Mỹ Tho) và Longhor (Dinh Long Hồ tức
Vĩnh Long bây giờ) để cầu ḥa.
Chúa Nguyễn sai khổn thần đo đạt
đặt thành Châu Định Viễn và dinh Long Hồ. Riêng Trần Đại Định có công không
có thưởng lại bị tội. Vốn Ninh Vương nóng ḷng chiến thắng nhưng
nghe tin Đại Thành tử trận nên viết thư quở Phước Vĩnh. Phước
Vĩnh hăi quá đổ hết tội cho Trần Đại Định là người Hoa mưu phản
xin mang ra xử trảm. Trần Đại Định trốn chạy nhưng không về Quảng
Đông mà ra Huế kêu oan.
Chúa sai bỏ vào ngục chờ điều
tra rồi mới xử. Khi điều tra ra việc Phước Vĩnh vu oan th́ Trần Đại
Định v́ buồn rầu nên bị ốm nặng đă chết. Ninh Vương truy tặng
Đại Định hàm Đô Đốc Đồng Tri thụy là Trương M ẫn. Trương Phư
ớc Vĩnh bị gián xuống làm Cai Đội.
VII. Mạc Thiên Tứ nới rộng thêm lănh
thổ cho Nguyễn Vương Đàng Trong.
Mạc Thiên Tứ cai trị trấn Hà Tiên rất
thịnh vượng. Tứ mở văn đàn làm thơ, phổ nhạc, vịnh phú, lập
Chiêu Anh Các để chiêu nạp nhân tài. Về vơ công Tứ cũng lẫy lừng không kém.
Năm 1739 Tứ dẹp tan một trận tấn công của vua Cao Miên. Năm 1747 Tứ dẹp
yên bọn cướp biển ở Long Xuyên.
Năm 1753 vua Cao Miên là Nặc Ông Nguyên (Ang Snguôn)
hà hiếp người Chăm từ Chiêm Thành tị nạn Việt Nam qua Cao Miên đồng
thời thông mưu với chúa Trịnh ngoài Bắc để đánh úp chúa Nguyễn đ̣i
lại đất đai đă mất. Vơ Vương Nguy ễn Phúc Khoát (1739-1765) sai Nguyễn
Cư Trinh hưng binh đánh Cao Miên mùa hạ năm 1754.
Binh triều đi tới sông Vàm
Cỏ th́ quân địch cả sợ ra hàng. Nặc Nguyên chạy ra Vĩnh Long. Ở vùng Vàm
cỏ Nguyễn Cư Trinh chiêu dụ người Chăm tị nạn bây giờ không nơi
nương tựa có tới 10,000 người và hộ tống họ đi về Đồng
Tháp Mười (Tà Vô Ân). Ở đây phục binh của vua Cao Miên ùa ra đánh giết người
Chăm chết mất 5000 người.
<!--[if !supportLineBreakNewLine]-->
<!--[endif]-->
Quân tiếp ứng của ông Thiện Chính đến
không kịp để cứu. Về sau Vũ Vương gián ông Thiện xuống làm Cai Đội.
Nguyễn Cư Trinh cứu được 5000 người Chăm cho về định cư
ở núi Bà Đen, Châu Đốc. Nguyễn Cư Trinh lại tuyển người Chăm khoẻ
mạnh đưa cho khí giới thúc họ đi tiên phong đánh quân Cao Miên. Quân triều đi
sau ủng hộ.
Thanh thế to lớn nên vua Cao Miên bỏ chạy xuống Hà Tiên nhờ
Thiên Tứ cứu mạng. Vua Cao Miên nhờ Tứ xin với Vơ Vương cho dâng hai phủ
Tầm Bôn (G̣ Công) và Lôi Lập (Tân An) để chuộc tội. Chúa Nguyễn thuận cho và
truyền cho nhập vào châu Định Viễn. Vơ Vương Nguy ễn Phúc Khoát cho vua Cao Miên Nặc
Ông Nguyên về nước.
Vua Cao Miên là Nặc Ông Nguyên băng hà năm 1758. Ḍng họ
vua Cao Miên tranh nhau làm vua. Mạc Thiên Tứ giúp cho Nặc Ông Tôn làm vua nên được tặng
Tầm Phong Lâm (Meat Chruk) tức Châu Đốc và Sa Đéc. Nội chiến ở Cao Miên vẫn không
dứt. Các vua Cao Miên lại sang triều Nguyễn dâng đất cầu cứu. Thế là
Nặc Ông Thuận (Thommo Réchea) hiến Sóc Trăng, Bạc Liêu. Nặc Ông Tôn (Ang Tong) hiến
hết đất từ núi Thất Sơn, Sa Đéc, Kiên Giang và Long Xuyên về sau đều thuộc
chủ quyền chúa Nguyễn.
Từ đây chấm dứt cuộc nam tiến
của dân tộc Việt nam. Cuối triều Vơ Vương Nguy ễn Phúc Khoát có quyền
thần là Trương Phúc Loan ra mặt thao túng. Vơ Vương băng hà năm 1765, Trương
Phúc Loan phế bỏ tự quân là Phúc Côn lập Định Vương Nguy ễn Phúc Thuần
(1765-1777) 12 tuổi lên ngôi mở đường cho mầm loạn lạc về sau. Sự
việc sẽ nói ở phần sau.
VIII. Luận về những khía cạnh văn
hóa ngoài phạm vi đất đai.
Đến đây dân tộc chúng ta đă tạm
dừng chân sau một cuộc hành tŕnh dài. Khởi nguồn từ miền Nam
Trung Hoa khu vực rộng lớn phía Nam
sông Dương T ử ở một quá khứ xa xôi. Những di dân người Việt vào
thế kỷ 17 đă lần đầu tiên nh́n thấy đồng bằng sông Mékong.
Tại đây có đồng bằng, sông lạch,
rồi lại đồng bằng. Nhiều đồng bằng hơn cả đồng bằng
sông Hồng, một vùng đất duy nhất tổ tiên chúng ta có thể biết được
để so sánh. Đối với một dân tộc sống nhờ vào trồng lúa ngập nước
th́ vùng đất này là ‘vàng’.
Khi mà nhà Thương Trung Qu ốc ngày xưa chỉ
có 70 dặm mà xưng Đế th́ chúa Nguyễn và dân tộc Việt Nam vào thế kỷ 17 đă
có 1000 dặm dư đồ. Một ngàn dặm vàng. Một thành quả không nhỏ.
Miền nam có một khí hậu không bao dung
cho nhiều người đến từ phương bắc. Ở đây mưa triền
miên 6 tháng rồi lại nắng liên tục 6 tháng. Đầm lầy đầy những muỗi
mồng rắn rít cực độc. Rừng rậm nhiều lau sậy chứa đựng
những hiểm nguy khôn lường, những ác thú như cọp, gấu, cá sấu có thể
giết và ăn thịt người.
Sau rừng cây ẩn hiện những người
đờn thổ đen đúa trần truồng tâm tính bất tường đối với
chúng ta. Rất có thể những người thổ dân tại đây có những bùa mê ngải
lú mà chúng ta không biết? Lo âu!
Cả một vùng đất hoàn toàn
xa lạ mà những thần linh quen thuộc dường như không c̣n quyền phép để
nhường chỗ cho những quyền lực thần bí khác. Chúng ta có thể phần nào
cảm thông được nỗi lo sợ của những người Việt đầu
tiên đến đây theo lịnh của chúa Săi qua câu ca dao xưa: ‘Tới đây non nước
lạ lùng, nghe tiếng chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng lo’.
Theo sử liệu triều Nguyễn th́ vùng
đất mới miền Nam gần như hoang vu, có chăng chỉ là rải rác những
srok của người Khmer. Srok tiếng Khmer có nghĩa là vương quốc nhưng cũng
lại có nghĩa là một vùng mà cư dân có thể đi lại bằng chân.
Tương tự như chúng ta dùng danh từ
nước để chỉ nước uống và quốc gia. Tuy thế đơn vị
srok vào thời đó lại không có nhà thương, trường học, đạo giáo th́
tùy tâm, quan lính thỉnh thoảng mới đến chỉ để thâu thuế và vua th́ xa.
Vào thế kỷ 17, vương quốc Chân
Lạp ở giai đoạn suy yếu. Một giai đoạn suy yếu đă kéo dài từ
thế kỷ 13 sau hơn 1000 năm thành công theo văn hóa Bà La Môn giáo (Hindu). Nhưng với
t́nh thế thay đổi nhanh chóng nền văn hóa cổ này với những hệ lụy
đẳng cấp bất di dịch không c̣n thích hợp với không khí chính trị nơi đây.
Người Khmer, trong sự lấn cấn
sau khi thất thủ đế đô Angkor đă từ bỏ Bà La Môn giáo để thay vào
đó bằng Phật giáo, vốn cũng đă từng tồn tại song song với Bà La Môn
giáo nhưng giờ lại trở nên có nhiều ưu thế hơn trong hoàn cảnh mới
đầy loạn lạc.
Khác với Bà La Môn giáo là đạo thật sự của
giới quí tộc cầm quyền mà thôi v́ nó giúp cho giới này duy tŕ quyền lực, Phật
giáo tạo một cảm giác b́nh đẳng cho mọi người. Thế nhưng vương
quốc Khmer vẫn không thể tạo lại nét huy hoàng quá khứ. Văn hóa Phật giáo cân
bằng sự khắc khe của Bà La Môn giáo nhưng lại mang tính chấp nhận hiện
tại như một định mệnh ‘karma’.
Tại miền Nam những dấu vết của
một đế quốc Phù Nam được dựng lên bởi những vơ công bằng thủy
quân, một nền kinh tế cường thịnh nhờ thương măi đă theo những
di tích xa xưa chôn vùi trong lớp bùn đất tại Óc Eo. Người di dân Việt Nam sau cùng đă đến đây để
chinh phục vào thế kỷ 17.
Người Việt sau 4000 năm Nam tiến
giờ đă mang trong ḿnh nhiều ḍng máu pha trộn của người Việt cổ, Lạc
hầu lạc tướng gốc Mường, Hán tộc, Chăm, Nam đảo-Malay-Polynésiên
và giờ đây những cuộc hôn nhân giữa Việt-Cao Miên lại cho chúng ta yếu tố
Môn-Khmer trong ḍng máu người miền Nam.
Dù không đem thành bại luận anh hùng,
yếu tố quyết định cho sự thành công hay thất bại của một dân tộc
vẫn là yếu tố văn hóa. Đặt biệt là văn hóa tổ chức. Di dân Việt
Nam là một tạp chủng về mặt huyết thống nhưng văn hóa lại là văn
hóa Khổng-Mạnh của Trung
Hoa đề cao sự học và phục tùng
mệnh lệnh. V́ đề cao sự học nên không có phân chia đẳng cấp vĩnh
viễn của Bà La Môn giáo.
Một người bần dân nếu học
giỏi vẫn trở thành Công Hầu vinh hiển trong một kiếp người và ngược
lại từ Công Hầu có thể trở thành ‘Cai Đội’ ngay nhăn tiền nếu
bất tuân thượng lịnh.
Thêm vào đó người Việt Nam lại cũng có thêm chút đỉnh Phật
giáo nhưng đa phần là đạo thờ tổ tiên và vai tṛ phụ nữ trong gia đ́nh
vẫn hăy c̣n mạnh. Một chút ǵ sót lại của chế độ mẫu hệ mà người
Chiêm Thành và người Việt cổ cùng chia sẻ. Đến đây chúng ta có cảm tưởng
chỉ có một hướng đi xuống phương nam mà thôi. Thực ra không phải thế.
Từ thượng cổ trước thời
điểm có sự phân chia quốc gia, Hán tộc tức người Tàu hay Trung Hoa chỉ
tập trung ở khu vực sông Hoàng Hà, cái nôi của nền văn minh Trung Hoa. Chung quanh họ
lúc đó không phải là đất hoang mà là nơi tập trung của những giống dân
khác trong đó có Việt tộc. Người Việt cổ, cứ coi là man di thật sự
đi, đă cộng cư với những giống dân ‘man di mọi rợ’ anh em khác
như Chăm cổ, Malay-Polynesien cổ từ phía nam kéo lên phương bắc.
Trong giai đoạn khủng hoảng tranh chấp
giữa nhóm người ‘văn minh’ với hào quang của những tiến bộ
của người Hán, nhóm người ‘man di’ anh em trở thành thù địch. Thù
địch rồi lại trở thành anh em để chống lại Hán tộc. Chiến
tranh rồi lại hoà b́nh. Hoà b́nh rồi lại chiến tranh. Cứ thế từng đợt
người lại kéo ngược về phương nam chinh phục những vùng đất
cũ giờ lại thành ‘mới’.
Tài liệu tham khảo:
1. Charles Kimball 2000: The history of Funan
2. History of the Kingdom
of Cambodia by the Royal Government of Cambodia
website.
3. Nguyễn Hữu Hiếu 2001: Chúa Nguyễn
và các giai thoại mở đất phương nam
4. Phạm Văn Sơn 1960: Việt sử toàn
thư
5. Đại Nam thực lục tiền biên
6. Lê Hương 1970: Sử Cao Miên.
7. Serge Thion 1988: Remodelling broken images: manipulation
of identities. Towards and beyond the Nation
Lính Tàu bay sưu tầm