Home
Blank page
thongbao

dh.jpg









































































Dù ba mươi ba năm bị mất tên (1975-2008) nhưng Sài G̣n vĩnh viễn vẫn là Sài G̣n



Friday, May 02, 2008




















































Mường Giang









Năm Ất Mùi (1295), Nguyên Thành Tôn cử một phái đoàn sứ giả, tới thăm vua Chân Lạp là Cindravarman (1295-1307), nhân tiện nhắc nước này về việc không triều cống cho Tàu. Trong đoàn, lúc đó có tùy viên Châu Đạt Quan, đă ghi lại cuộc du hành, qua các thiên kư sự như ‘Chân Lạp phong thổ kư, Thành trai tạp kư, Cổ kim thuyết hải, Đồ thư tập thành... ’ về sau được danh sĩ Ngô Khâu Diên, ca tụng hết lời trong tác phẩm ‘Trúc tố sơn pḥng thi tập’.





Cũng nhờ những ghi chép của họ Châu, chúng ta ngày nay mới biết được thực trạng của vùng Thủy Chân Lạp (Nam Phần), qua thủy lộ từ cửa Đại (Mỹ Tho), tới các vùng đất của miền Lục Chân Lạp (Kampuchia ngày nay) như Trà Nam (tức Tch'a Nan, tỉnh Kompong Chhnag), Bàn Lộ Thôn (Panlon Is'one), Phật Thôn (Fo Is'one), Đàm Dương (Biển Hồ-Tân Yang Tonlésap) và kinh đô lúc đó là Angkor, tức Đế Thiên Đế Thích.





Theo bút kư ghi lại, ở đâu cũng chỉ thấy cảnh hoang tàn cô quạnh, hầu như toàn là cỏ kê lau lách, không một bóng cây xanh, vườn tược, ruộng rẫy và sự sống hay bước chân của con người, ngoài tre nứa và từng đàn trâu rừng tụ họp trong các đầm lầy bùn śnh, dọc theo hai bờ sông.đục ngầu và đặc sệt những đám lục b́nh lang thang xuôi ngược.





Đọc ‘Đất Việt trời Nam’, của Thái Văn Kiểm, ta thấy tác giả đă hết ḷng ca tụng Săi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635), và Trần Nhân Tông thuở trước, v́ hai ngài chỉ nghĩ tới non nước, nên vua Trần th́ đă gă Huyền Trân Công Chúa cho vua Chế Mân, vừa được thêm hai châu Ô-Lư (Quảng Trị-Thừa Thiên), lại vừa có được một đồng minh Chiêm Thành lúc đó, rất hùng mạnh ở phương Nam, để hai nước cùng lo chống giặc Mông Cổ. C̣n Săi Vương cũng vậy, Ông đă v́ nước, nên đem hai người con gái cưng là Ngọc Khoa gă cho vua Chiêm Thành Po Romé và Ngọc Vạn lấy vua Chân Lạp Chei Chetta II. Nhờ vậy Đàng Trong mới có ḥa b́nh ở Nam phương, tạo cơ hội cho người dân Thuận-Quảng tới được miền Thủy Chân Lạp lúc đó đang bị bỏ hoang, để khai khẩn làm ăn v́ lănh thổ của Chúa Nguyễn rất hạn hẹp, không có bao nhiêu đồng ruộng, trong đó đất đai hầu hết đều xấu v́ sự xâm thực của cát biển, đất núi, không trồng trọt được là bao, dù nông dân đă tận lực.





Năm 1698, sau khi b́nh định xong Thuận Trấn, Thống Suất Nguyễn Hữu Cảnh được lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu vào Nam để mở rộng bờ cơi Đại Việt. Cùng theo đoàn quân đi mở đất phương Nam, lúc đó có rất nhiều di dân theo khai hoang lập nghiệp. Nhưng tất cả từ quân cho tới dân, ai nấy đều không khỏi kinh hoàng bạt vía, trong cảnh bơ vơ nơi đất lạ muôn trùng: “tới đây xứ sở lạ lùng, con chim kêu phải sợ, con cá vàng cũng kinh và chèo ghe sợ sấu cắn chưn, xuống sông sợ đỉa, lên rừng sợ ma”. Sự kiện này cũng đâu khác ǵ hoàn cảnh của người Việt trước đó, khi theo chúa Nguyễn Hoàng, tới khai khẩn lập nghiệp các vùng đất miền Trung bỏ hoang của người Chiêm, từ B́nh Định vào tới B́nh Tuy ngày nay. Tất cả đă nói lên mặt thật của miền Đồng Bằng Sông Cửu Long và địa danh Sài G̣n, thuở xa xưa hơn 300 năm về trước, khi mà ông cha ta từ miệt ngoài vào đây khẩn hoang lập vườn. Tất cả thật sự là vùng ác địa, ma thiêng nước độc, chẳng những trên rừng hoang đầy rẫy thú dữ, mà ngay dưới sông cũng đặc nghẹt ngư ḱnh.





Cũng may các vị tiền nhân trong đó hầu hết là các Chúa Nguyễn Nam Hà, nhất là Săi Vương, Hiền Vương và Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu, cùng với các danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Cửu Đàm, Nguyễn Văn Thoại, Lê Văn Duyệt... và lưu dân Thuận-Quảng lúc đó, đă lấy mồ hôi nước mắt, cùng với xướng máu và sự quyết tâm vượt qua mọi nguy hiểm tại họa chết người, mà ngày nay chúng ta con cháu mới có được miền đát Nam Phần trù phú, cũng như thủ đô yêu dấu Sài G̣n, để cho Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế, sau ngày 30 Tư 1975 vào cướp của và đổi tên, cũng như chuẩn bị dọn bàn thờ hương án để đón rước ‘Đuốc máu của giặc Tàu’ trong ngày 29 Tháng Tư 2008.





Theo Trịnh Hoài Đức trong ‘Gia Đinh thành thông thái’, ngay từ năm 1623, th́ dân Việt đă đến làm ăn tại Sài G̣n lên tới 10,000 người, nên Săi Vương Nguyễn Phúc Nguyên đă cho thu thuế thương chính cũng như lập đồn binh, trại quân để bảo vệ an ninh và tài sản của lưu dân Việt. Như vậy Sài G̣n đă trở thành vùng đất quan trọng của Nam Hà, từ nửa thế kỷ XVII. Nhưng theo Lê Quư Đôn trong ‘Phủ biên tạp lục’, th́ địa danh Sài G̣n, mới thật sự chính thức vào sử sách, từ Tháng Hai 1674, khi Hiền Vương sai Nguyễn Dương Lâm vào bảo vệ cho Phó Vương Chân Lạp là Nặc Nộn, đóng đô ở đây.





Cũng từ đó Sài G̣n đă thay đổi không ngừng theo sự biến chuyển của lịch sử dân tộc, mà khởi đầu là việc Kinh Lược Sứ Nguyễn Hữu Cảnh năm 1698, dựng dinh Phiên Trấn, lập huyện Tân B́nh và khai sinh ra đô thị Sài G̣n. Năm 1890 Chúa Nguyễn Phúc Ánh xây thành Bát Quái nguy nga tráng lệ với một chu vi tới 648m. Thành này được Vua Minh Mạng phá bỏ năm 1836, để xây Gia Định Thành và tồn tại tới 17 Tháng Hai 1859, mới bị thực dân Pháp và Tây Ban Nha phá sập. Từ đó Sài G̣n sống dưới gót giầy nô lệ của ngoại xâm nhưng đă không bị giặc dày xéo xóa tên, trái lại c̣n được trân quư, nổi danh thành ‘Ḥn ngọc Viễn Đông’ một thời lừng lẫy.





Ngày 3 Tháng Chín 1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện. Thừa dịp chính quyền VN lúc đó đang bị bỏ ngỏ v́ sự sụp đổ của Chính phủ Trần Trọng Kim, sự thoái quyền bất ngờ của Vua Bảo Đại, nên Việt Minh nổi dậy cướp chính quyền. Cùng lúc thực dân Phap cũng theo chân quân Anh Ấn, tái chiếm Sài G̣n dễ dàng, nhờ sự góp công của Ủy Ban Hành Chánh, do Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo... cán bộ cộng sản đệ tam trá h́nh trong Mặt Trận Việt Minh lúc đó chỉ lo thanh toán các thanh phần đối lập, ruồng bắt thủ tiêu, chỉ điểm sát hại các lănh tụ quốc gia, trong số này có Đức Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ Phật Giáo Ḥa Hảo, kể cả người anh em cộng sản đệ tứ, làm cho tiềm lực kháng chiến chống Pháp tại Sài G̣n và Nam Phần bị chia rẽ, yếu kém.





Rồi lợi dụng ḷng nhân từ, t́nh đồng bào và lệnh hưu chiến vào ngày Tết Nguyên Đán thiêng liêng nhất trong năm của dân tộc, Hồ Chí Minh và đảng Việt Cộng, ra lệnh tổng tấn công khắp lănh thổ VNCH, từ bên này cầu Hiền Lương tại Vĩ tuyến 17, vào tới chốn tận cùng của đất Việt ở Cà Mâu, trong dịp Tết Mậu Thân 1968. Thủ đô Miền Nam, bao gồm Sài G̣n-Chợ Lớn-Gia Định, bị cộng sản quốc tế tấn công 2 lần, đợt I vào dịp Tết và lần 2 trong Tháng Năm 1968. Ngoài sự thiệt hại vật chất, nhất là ở những chốn thờ phụng tôn nghiêm, bị cộng sản chiếm đóng, đặt súng đạn để tấn công đồng bào và QLVNCH, nền đă bị bom đạn của cả hai phía tàn phá, cùng với nhiều khu vực sinh sống làm ăn của người dân lương thiện.





Sài G̣n kinh hoàng trước cảnh tàn phá và người chết v́ VC, đâu có khác ǵ cảnh quân Tây Sơn thuở trước đốt phá Đồng Nai, Biên Ḥa, Gia Định, để trả thù dân chúng ở đây, đă theo chúa Nguyễn Ánh chống lại họ. Nhưng cuối cùng nhờ sự hy sinh xương máu của người lính miền Nam, nên VNCH vẫn đứng vững và Sài G̣n vẫn là Ḥn Ngọc Viễn Đông trân quư của thế giới tự do, cho tới trưa 30 Tháng Tư 1975, qua lệnh của Tổng Thống Dương Văn Minh, bắt dân lính buông súng, ră ngũ và đầu hàng giặc xâm lăng, mới chịu gục ngă trước bạo lực.





Sau khi dẹp bỏ cái quái thai của thời đại, được gọi là ‘Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam’, ngày 20 Tháng Mười Hai 1976 cộng sản đệ tam quốc tế, qua quyền hành của kẻ thắng trận, lập nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa VN gồm hai miền Nam-Bắc, thủ đô cả nước là Hà Nội, năm đó có 800,000 dân kể cả ngoại ô. C̣n Sài G̣n, thủ đô của Miền Nam, vùng đất thiêng của dân tộc, được tạo dựng bằng máu lệ xương thịt của tiền nhân, qua bao nhiêu thế hệ kể cả quân dân VNCH trong 20 năm (1955-1975), bị cộng sản quốc tế cưỡng đoạt, đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh, giá trị chỉ là một thành phố địa phương, như những thành phố lơn trong nước Hải Pḥng, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ... dù Sài G̣n năm đó, có dân số đông nhất nước, là 1,860,000, nếu cộng thêm vùng ngoại ô, gồm 6 huyện B́nh Chánh, Thủ Đức, Hóc Môn, Củ Chi, Nhà Bè và Duyên Hải, tổng cộng là 2,680,000 người.





Ba mươi ba năm qua, kể từ ngày Sài G̣n bị mất tên, mà thật sự chỉ mất trên các văn kiện của đảng cộng sản chứ nơi tâm hồn của người Việt trong và ngoài nước, trừ một vài tờ báo bợ đít VC xài, c̣n đâu có ai thèm dùng cái xú danh này? dù là giai đoạn hung hiểm nhất (1975-1990).





Sau khi thiên đàng xă nghĩa bị sụp đổ tại Đông Âu và Liên Xô, bắt buộc đảng VC phải mở cửa để kiếm sống và cứu ḿnh. Cũng kể từ đó cho tới nay (2008), người VN trong và ngoài nước, hầu như không c̣n ai nhớ tới thành Hồ, kể cả những lúc bị bắt buộc, họ vẫn nói trỏng là thành phố mà thôi. Mấy lúc gần đây, có một số văn nô trong nước, trước vấn nạn của đồng bào về việc tại sao phải đổi tên Sài G̣n, đă trả lời đó là để ghi nhớ công ơn của một số danh nhân, nên đảng đă lấy tên làm một số địa danh như TP. HCM, đường Nguyễn Văn Trổi, công viên Lê Văn Tám, trường Vơ Thị Sáu, kênh Lê Anh Xuân... Chúng c̣n viết thêm, v́ anh thanh niên Nguyễn Văn Ba, đă xuất dương cứu nước tại bến Đầu Rồng vào năm 1911, nên phải đổi tên Sài G̣n, để kỷ niệm. Luận điệu y chang như việc thầy Thành tới dạy học ở trường Dục Thanh Phan Thiết độ vài ba tháng. Chỉ chừng đó thôi, nên đảng phải tịch thu gia sản của Nguyễn Thông và đồng bào quanh vùng Cồn Cỏ-Đức Nghĩa, dọc theo bờ sông Cà Ty (đường Trưng Nhị), để lập nhà bảo tàng cho ‘bác’ được sống măi trong quần, chúng B́nh Thuận.





V́ gần hết cán bộ cao cấp của đảng cộng sản VN đều xuất thân tại Liên Xô, từ Hồ Chí Minh, Trần Phú, Lê Hồng Phong... xuống tới các thế hệ đương cầm quyền hiện nay như Nông Đức Manh, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, cho nên việc đảng cộng sản VC, sao y bản chánh từ đảng CS mẹ LX, đem về ứng dụng tại VN, cũng là điều bó buộc. Tại Liên Xô, sau cách mạng 1917, Lenin triệt hạ Sa Hoàng, đổi cờ, chế độ, xây tượng đài, lăng, ướp xác và đổi luôn tên của thành phố lớn thứ 2 của Nga, vốn là nơi sinh quán của ḿnh (kể cả Putin sau này), từ tên nguyên thủy ST. Petersburg thành Leningrad (hiện có 4,456,000 dân).





Sau đó Staline cũng bắt chước Lenin, đổi thành phố sinh quán của ḿnh là Volgograd thành Stalingard (hiện có 999,000 người ). Nhưng đời là một cuộc bể dâu trước mắt, nên đâu có ai ngờ được ngày mai, như chuyện bên Tàu, khi Trung Cộng chiếm được Lục địa, đă nhân danh khảo cổ, văn hóa, nghệ thuật... mà thật sự là đào mả người khác để cướp vàng bạc châu báu, nên ra lệnh cho khai quật tất cả các lăng mộ của hầu hết các vị đế vương Trung Hoa, từ Tần Thủy Hoàng, Hán Cảnh Đế, Vơ Tắc Thiên... ở đồng bằng Guanzhong, Tây Bắc tỉnh Shannxi (72 hoàng đế), cho tới mộ của Càn Long, Từ Hi... những vị vua Măn Thanh, tại vùng Đông Bắc nước Tàu.





Năm 1991, chế độ cộng sản bị cáo chung tại Đông Âu và Liên Xô, ngoài việc hai thành phố Leningard và Stalingard được lấy lại tên cũ, các tượng Lenin tại Mạc Tư Khoa và cả nước bị giựt sập, thảm nhất là bức tường bề thế tại quảng trưởng đỏ của thủ đô bị dân chúng Nga chém đầu. Riêng lá cờ máu búa liềm của Liên Xô, được xài từ năm 1917 tới đầu năm 1992, cũng được thay thế bằng lá cờ tam tài nằm ngang với ba màu trắng xanh lơ và đỏ của nước Nga, đă có từ thế kỷ XIX, với ư nghĩa thiêng liêng, nói lên sự h́nh thành của nước này, do ba chủng tộc: Bạch Nga (màu trắng), Ukraine (màu xanh lơ, nay đă tách riềng thành một nước độc lập) và người Moskva (màu đỏ).





Những ngày máu lửa cuối Tháng Tư 1975, nhiều người uất hận đau khổ bỏ nước ra đi trong tuyệt vọng và tin chắc rằng cả đời ḿnh sẽ chẳng bao giờ được trở về quê hương, trong đó có Sài G̣n. Bởi vậy Nguyễn Đính Toàn đă viết ‘Sài G̣n ơi ta đă mất người như người đă mất tên’. Nhưng bây giờ th́ ai cũng ngang nhiên, dơng dạc về Sài G̣n hàng chục lần và ngay trước mặt công an VC, ai cũng xài tên Sài G̣n, chứ có người nào nói tới TP. HCM?





Như vậy Sàig̣n đâu có mất tên, v́ người Việt, nước Việt vẫn c̣n. Nên chuyện lấy lại cái tên chính thức chỉ c̣n là vấn đề thời gian mà thôi, v́ cuộc biển dâu, đâu ai biết trước mà ngờ? Theo tin của Reuters ngày 28 Tháng Chín 2005, th́ các chóp bu Điện Cẩm Linh, trong đó có Putin, đang cứu xét việc đập bỏ lăng Lenin, lănh tụ đầu tiên của đảng cọng sản đệ tam quốc tế, chết năm 1924, được xây tại Quảng trường Đỏ ở thủ đô Moscow, đem chôn theo ư của dân Nga, đă đ̣i hỏi từ năm 2001 tới nay vẫn chưa nhúc nhích?





Những ngày c̣n sống trong nước, bất cứ nghe ai hát lén bài hát đầu tiên từ hải ngoại vọng về quê hương VN đang quằn quại ngoi ngóp trong địa ngục đỏ, khiến ai cũng phải khóc. Đó là bài ‘Vĩnh Biệt Sài G̣n’ của Nam Lộc, trước năm 1975 là một sĩ quan của QLVNCH, một nhạc sĩ tài tử, chuyên môn giới thiệu hầu hết các chương tŕnh ‘Nhạc Trẻ của Sài G̣n’ trong thập niên 60-70. Thiên hạ chưa kịp khô hết nước mắt hận hờn, th́ Việt Dũng lại làm cho người người thét lên thành tiếng, khi anh viết ‘Một Chút Quà Cho Quê Hương’:





“Em gửi về cho anh dăm bao thuốc lá





Anh đốt cuộc đời ṃn trên ngón tay





Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may





Mẹ may hộ con quê hương quá đọa đày





Con gởi cho cha một manh áo trắng





Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây...”





Những lời ca thắm thiết của một thời, nghe hoài vẫn thấy đứt ruột.









Sài G̣n trước ngày 1 Tháng Năm 1975









Sài G̣n khởi thủy chỉ là một làng đánh cá nhỏ của người Miên, nằm ở vị trí giao lưu của Rạch Bến Nghé-Sông Sài G̣n và trở nên quan trọng, sau khi được chọn làm thủ đô miệt rừng của Phó vương Miên, cai quản miền Thủy Chân Lạp, nên mới được gọi là Prey Nokor. Trong lúc đó hầu hết lưu dân Việt đầu tiên, tới khẩn hoang lập ấp trên đất Miên, đều tập trung ở khu vực Đông Bắc, vùng Mơ Xùy-Đồng Nai, cách Sài G̣n chừng 30 km.





Tất cả cũng nhờ công lao của Hoàng Hậu Ngọc Vạn, nên triều đ́nh Chân Lạp đă cho phép người Việt vào đất Miên lập nghiệp một cách dễ dàng. Năm 1698 Preykor đổi thành Sài Côn, được mô tả là rộn rịp trù phú. Nhưng năm sau (1699) bị vua Chân Lạp là Nặc Thu, ra lệnh đốt phá nhà cửa và tàn sát (cáp Duồng) lưu dân Việt tại đây. Trước t́nh cảnh nguy ngập của đồng bào, nên Chúa Nguyễn Phúc Chu, đă phái Thống Suất Nguyễn Hữu Cảnh, đem quân hai Dinh B́nh Khang-B́nh Thuận vào Nam, hợp với hai cựu tướng nhà Minh là Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch, lúc đó đang cùng 3,000 binh sĩ dưới quyền, được Chúa Nguyễn, cho khai phá vùng Đông Phố, Lộc Dă, Mỹ Tho... để lập các làng định cư Minh Hương.





Tất cả cùng nhau b́nh định Chân Lạp, đánh đuổi Nặc Thu chạy về Nam Vang. Sau khi t́nh h́nh khắp vùng đă ổn định, Nguyễn Hữu Cảnh trả lại đất Lục Chân Lạp cho vua Miên, rút quân về nhưng trên đường lui quân, th́ nhuốm bệnh và mất tại Rạch Gầm (Định Tường), vào ngày mồng 9 Tháng Năm năm Canh Th́n (1700), lúc đó chỉ mới 51 tuổi. Được tin buồn trên, cả nước, từ triều đ́nh xuống tới dân chúng, ai cũng thương tiếc một đấng anh hùng cái thế, có công lao rất lớn đối với đất nước và dân tộc Việt Nam... trên đường mở mang bờ cơi về phương Nam. V́ vậy gần như khắp nơi ở Đàng Trong, nhất là Nam Phần, nơi nào cũng có đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, dù theo tài liệu, th́ Ông được chôn ở Biên Ḥa, Ông thuộc ḍng dơi của Nguyễn Bậc (Đời nhà Đinh), Nguyễn Trăi (Hậu Lê). Nguyễn Hữu Bài (Nhà Nguyễn) cũng là con cháu của Ông. Người Chân Lạp cũng lập đền thờ ông tại Nam Vang,, v́ kính phuc đức độ nhân từ của một tướng lănh VN...





Theo Trịnh Hoài Đức, từ năm 1698 trở đi, Nam Hà đă thiết lập được chính quyền tại Sài G̣n, dựa theo qui chế của nhà Hậu Lê, v́ lúc đó các Chúa Nguyễn tuy đánh nhau với Họ Trinh nhưng vẫn c̣n thần phục Vua Lê. Măi tới năm 1744, Chúa Nguyễn Phúc Khoát mới xưng vương hiệu, dời phủ chúa về kinh thành Phú Xuân (Huế), đúc ấn tín và chia bờ cơi Đàng Trong, từ Nam Bố Chính vào tới Hà Tiên, thành 12 dinh, 1 trấn, đặt Huyện Tân B́nh (Gia Định) làm Phiên trấn dinh... Sau khi Thống Suất Kinh Lược Sứ Nguyễn Hữu Cảnh mất, các quan vơ cao cấp nhất thời ấy, lần lượt thay thế như Trương Phúc Vĩnh (1731), giữ chức Điều Khiển. Năm 1753 quan Kư lục Bố Chính Dinh là Nguyễn Cư Trinh, giữ chức Tham mưu, chỉ huy 5 Dinh B́nh Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ. Đồng thời kiêm Kinh Lược Sứ, cai trị luôn đất Lục Chân Lạp.





Năm 1772 Chúa Nguyễn Phúc Thuần cử Nguyễn Cửu Đàm, con Nguyễn Cửu Vạn làm Điều Khiển Sài G̣n, kiêm Thống Suất các Dinh. Ông là người đầu tiên cho đắp lũy đất, bao quanh các đồn dinh, chạy dọc theo Rạch Thị Nghè, sông Sài G̣n để ngăn ngừa các cuộc tấn công của người Miên. Năm 1776 bị quân Trịnh từ Đàng Ngoài tấn công, Chúa Nguyễn Phúc Thuần cùng hoàng gia, bỏ Phú Xuân, chạy vào Sài G̣n nhưng năm sau (1777), lại bị Nguyễn Lữ (Tây Sơn) tấn công, nên Chúa Nguyễn phải chạy về Dinh Trấn Biên. Từ đó, trong suốt 10 năm (1777-1787), Sài G̣n trở thành băi chiến trường giữa hai phe Chúa Nguyễn và Nhà Tây Sơn. Cuối cùng vào tháng 8-1788, Chúa Nguyễn Ánh ( cháu Nguyễn Phúc Thuần bị Tây Sơn giết), mới chiếm lại được Sài G̣n.





Năm 1802 Vua Gia Long đánh bại Nhà Tây Sơn và thống nhất đất nước từ Bắc vào Nam, đóng đô tại kinh thành Huế thuộc tỉnh Quảng Thuận (Thừa Thiên). Sài G̣n và toàn cơi Nam Phần, được giao cho quan Tổng Trấn Lê Văn Duyệt, là một trong những tướng lănh tài ba, đạo đức của Nhà Nguyễn. Vùng đất cuối cùng của miền Thủy Chân Lạp, được sáp nhập vào lănh thổ của Đại Nam, năm 1840 là Sóc Trăng, kết thúc cuộc Nam tiến của người Việt, từ Quảng B́nh vào tới Hà Tiên, kéo dài hơn 800 năm.





Năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu xâm lăng VN, chiếm Sài G̣n lúc đó, theo tài liệu của một người Pháp tên Barrière viết trong ‘Histoire de l'expédition en Cochinchine en 1861’, th́ đây không phải là một thành phố, mà chỉ là các làng mạc rải rác, trên địa điểm của Sài G̣n ngày nay. Riêng lưu dân Trung Hoa đầu tiên tới lập nghiệp tại Biên Ḥa từ năm 1860 nhưng thành phố này đă bị quân Tây Sơn tàn phá năm 1778. Do đó mọi người phải chạy về Rạch Bến Nghé lánh nạn và xây dựng ở đây thành phố Chợ Lớn.





Khi Lê Văn Duyệt làm Tổng Trấn Gia Định Thành, đă chỉnh trang lại Chợ Lớn, thiết lập giang cảng, trải đá dọc theo Rạch Bến Nghé và cho xây cất nhiều kho hàng ở cả hai bên bờ. Ngoài ra c̣n cho đào nhiều kênh, biến các vùng đất thấp trũng nước thành ruộng lúa. Hàng hóa và ghe thuyền khắp nơi, nhờ có Rạch Bến Nghé (Trung Hoa) và kênh đào nên ra vào Chợ Lớn tấp nập. Tính tới năm 1861, Chợ Lớn có 40.000 dân và 500 nhà lợp ngói, ban đêm thành phố được soi sáng bởi đèn dầu phộng.





Tóm lại trong thời Pháp thuộc, ở đây có hai thành phố riêng biệt: Người Việt và một số ít người Hoa sống ở Sài G̣n. C̣n Chợ Lớn là thành phố của người Hoa, ngăn cách nhau bởi một nghĩa địa lớn. Đề đốc Le Page (1859) và Bonnard (1861) là những người có công, tiếp nối công tŕnh dang dở của Tổng Trấn Lê Văn Duyệt, trong việc chỉnh trang, xây dựng và mở rộng Sài G̣n-Chợ Lớn thành Ḥn Ngọc Viễn Đông. Từ năm 1954-30 Tháng Tư 1975, Sài G̣n-Chợ Lớn nhập chung thành một và là thủ đô của VNCH. Nhưng Chợ Lớn vẫn là trung tâm thương-công nghiệp số 1 của Miền Nam, giữ vai tṛ nhập-xuất cảng mọi sản phẩm chế biến, kể cả lúa gạo của đồng bằng sông Cửu Long. Trong lúc đó Sài G̣n là một thương cảng, thành phố Âu hóa với nhiều cao ốc, trường học, gian hàng buôn bán và là trung tâm hành chánh của Chính Phủ.









Sài G̣n thời Pháp thuộc (1861-1954)









Khi thực dân Pháp xâm lăng Nam Kỳ, chiếm Sài G̣n đă có ư đồ coi vùng đất này như là lănh thổ của chính quốc. V́ vậy thành phố đă được chỉnh trang và xây dựng nhanh chóng, để đáp ứng với t́nh h́nh chính trị và quân sự lúc đó... Trước đây, thành cổ Sài G̣n và Chợ Lớn thời nhà Nguyễn được bao bọc bởi hai con rạch Tàu Hủ, Thị Nghè và sông Sài G̣n, nắm ưu thế về quân sự lẫn kinh tế. Chính Chúa Nguyễn Ánh trong thời gian tẩu quốc, đă nh́n thấy sự lợi hại của Sài G̣n, nên quyết tâm chiếm lại trong tay Nguyễn Lữ, để làm hậu phương và căn cứ chính cho quân Nguyễn, chống lại Nhà Tây Sơn.





Qua các bản đồ cổ c̣n lưu trữ tại Nha Địa Dư VN, ta thấy đầu tiên Sài G̣n-Chợ Lớn, gần như phát triển riêng biệt. Cũng trong thời gian này t́nh trạng dân số tại hai thành phố tăng trưởng nhanh chóng, v́ vậy Pháp đă mở nhiều trục lộ giao thông trong hai thành phố. Sau khi Đệ nhất thế chiến 1 chấm dứt, thực dân trở lại khai thác tài nguyên Đông Dương mà VN là quan trọng nhất. Từ Sài G̣n Chợ Lớn, Pháp di dân tới miền Đông là vùng đất xám đỏ rất ph́ nhiêu, để lập các đồn điền trồng cao su, cà phê, trà, mía, thuốc lá... Đồng thới Pháp cũng di dân về đồng bằng sông Cửu Long, đào kênh, mở rộng đất đại trồng lúa.





Sự phát triển kinh tế Nam Kỳ, giữa hai cuộc thế chiến, làm tăng thêm sự thịnh vượng của Giang Cảng Sài G̣n, nhất là việc xuất cảng gạo. Cũng từ đó nhiều nhà máy xây lúa, các khu công nghệ chế biến... gần như tập trung ở Chợ Lớn, thu hút cư dân cả nước đổ xô về thủ đô của Nam Kỳ lập nghiệp, nhờ sự phát triển của các hệ thống thiết lộ xuyên Việt từ Bắc vào tới Sài G̣n, Mỹ Tho và Lộc Ninh. Đường bộ lên tới Nam Vang của Cao Miên, được khai thác từ năm 1936 trong thời gian Doumer làm Toàn quyền Đông Dương. Mặc dù đă có đường xe lửa và đường bộ nối liền nhưng trước năm 1945, giữa Sài G̣n Chợ Lớn vẫn c̣n ngăn cách bởi khu nghĩa địa, nhiều đầm lầy, ruộng trồng lúa và các khu vườn trồng cây ăn trái.





Sau ngày 3 Tháng Chín 1945, Nhật thua trận đầu hàng Đồng Minh và rút hết về nước. Ngay lúc đó, thực dân Pháp được Anh giúp đỡ, đă trở lại cưỡng chiếm VN một lần nữa. Chiến tranh long trời lở đất khắp toàn cơi Đông Dương, kéo dài suốt 9 năm (1946-1954), gây cảnh nhà tan người chết nhưng thảm thê nhất, vẫn là tuyệt lộ của đồng bào, trong thời lửa đạn, một cổ hai tṛng của giặc Pháp xâm lăng và cộng sản núp trong Mặt Trận Việt Minh, tha hồ nhiễu nhương bá tánh, nhất là những người không chịu theo phe đảng với chúng. Do vậy mà dân chúng khắp nơi, nhiều người phải bỏ làng mạc, đồng ruộng, chạy về Sài G̣n lánh nạn, làm cho dân số ở đây từ năm 1946 tới 1954, tăng thêm 4 lần (492,000 người ố 1,900,800 người).





Cuối cùng quân viễn chinh Pháp đă bị toàn dân VN đánh bại tại Điện Biên Phủ nhưng thảm thê thay cho số phận của một dân tộc nhược tiểu trước sự sắp đặt của cái gọi là Liên Hiệp Quốc, nên đất nước lại chia đôi, làm cho nửa phần giang sơn gấm vốc của Hồng Lạc, đă phải ngậm ngùi đắng cay, lọt vào thế lực của Hồ Chí Minh và đảng cọng sản. Ngày 20 Tháng Bảy 1954, hiệp định phân đôi đất nước chính thức được kư tại Genève, lần nữa đă làm hơn cả triệu đồng bào Miền Bắc, trốn chạy vào Nam tị nạn cọng sản, trong số này có 850,000 người đổ xô về thủ đô Sài G̣n-Chợ Lớn. Ngày 7 Tháng Bảy 1954 nội các Ngô Đ́nh Diệm chính thức ra mắt quốc dân VN, trong một giai đoạn cực kỳ hỗn loạn nhất của đất nước với t́nh trạng sứ quân như thời nhà Ngô và trên hết nạn nhân măn tại thủ đô.









Sài G̣n thời VNCH (1955-1975)









Ngay khi thu hồi được nền độc lập từ thực dân Pháp, chính phủ VNCH đă nỗ lực chỉnh trang và mở rộng thành phố Sài G̣n-Chợ Lớn-Gia Định, để giải quyết t́nh trạng gia tăng dân số. Thành phố được mở rộng khắp nơi, ngoại trừ phía bên Thủ Thiêm v́ sự ngăn cách bởi con sông Sài G̣n quá rộng, không có cầu bắc ngang sông và vùng bên đó có nhiều ao hồ, trũng thấp nên thường bị lụt. Nhiều cầu mới được bắc ngang kênh Tàu Hũ và Kinh Đôi, cùng với đường xe lửa và nhiều đường sá chạy song song với hai con kênh trên, khiến ranh giới giữa Sai G̣n-Chợ Lớn, được thu hẹp. Trong giai đoạn này, đă có nhiều xóm nhà b́nh dân, mọc lên ở vùng ven biên, gồm khu nhà sàn và nhà ghe dọc theo hai bờ kinh Tàu Hũ, từ Cầu Quây tới Chợ Quán, dọc theo bến Hàm Tử, B́nh Đông và bến Phạm Thế Hiển (kinh Đôi).





Để giải quyết nạn nhân măn tại thủ đô, ngoài việc hồi hương của quân viễn chinh Pháp và người Việt có quốc tịch nước này. Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă ban hành các Dụ số 7 (1955), Dụ số 57(1956), nhằm mục đích khuyến khích nông gia có ruộng trở về tiếp tục canh tác, nếu bỏ hoang sẽ bị truất hữu để phân phối cho người khác. Đạo luật trên, cũng nhằm thực hiện chính sách cải cách điền địa của Chính phủ Quốc Gia, giúp tá điền trở thành chủ điền, bằng chính sách tịch thu ruộng của những chủ điền có trên 100 mẫu Tây.





Ruộng này được bán lại cho tá điền, qua h́nh thức Tín Dụng, trả góp cho chính phủ trong 12 năm. Ngoài ra c̣n có Chính Sách Dinh Điền và Khu Trù Mật, dành cho đồng bào Di Cư Miền Bắc và Đồng Bào nghèo ở Miền Trung cũng như trên các tỉnh Cao Nguyên Trung Phần... Tại các Khu Dinh Điền mới này, nông dân ngoài ruộng được cấp tùy theo nhân khẩu (từ 1-2 mẫu), c̣n có quyền khẩn hoang tới 5 mẫu đất. C̣n Khu Trù Mật th́ dành riêng cho các gia đ́nh sống rải rác ở những vùng xa xôi các trục giao thông, quận, tỉnh... được dồn về đây sinh cơ lập nghiệp. Đây là một địa điểm chuyển tiếp, giữa nông thôn và thành thị, nên có đủ cơ sở hạ tầng, trường học, chợ búa và bệnh xá. Tất cả miễn phí, nhà có điện và đất vườn trồng các loại cây ăn trái. Tóm lại chỉ trong 3 năm (1955-1957), chính phủ đă thiết lập được 72 Khu Dinh Điền + Trù Mật ở Cao Nguyên Trung Phần, 37 ở Miền Trung và 97 Khu tại Nam Phần. Nhờ vậy đă giảm bớt 250,400 người tại Sài G̣n (80,325 đồng bào miền Bắc di cư + 70,075 dân Miền Trung + số dân Đô Thành t́nh nguyện).





Ngoài ra Chính Phủ c̣n thực hiện nhiều công tŕnh chỉnh tranh thành phố như dẹp bỏ thiết lô Sài G̣n-Mỹ Tho và hệ thống đường xe lửa điện trong thành phố, mở rộng các đại lộ chính, xây hai cầu Phan Thanh Giản và Thị Nghè, để mở rộng thành phố ra Xa lộ Biên Ḥa... Một hệ thống xe buưt công cộng, nối liền trung tâm thủ đô với các quân ven biên Tân B́nh, B́nh Thạnh, Phú Nhuận, khiến cho dân số vùng này, từ 64,700 (1951) tăng lên 236,000 (1959).





Ngày 20 Tháng Mười Hai 1960, Hồ Chí Minh và cộng sản Hà Nội, lại phát động cuộc chiến tranh xâm lăng VNCH, qua b́nh phong MTGPMN, theo chiến thuật cố hữu ‘lây nông thôn bao vây thành thị’, gây bất ổn đời sống của đồng bào khắp nơi, khiến cho nhiều người lại bỏ hết tài sản, ruộng vườn, để chạy ngược về Sài G̣n lánh nạn.Rồi th́ chính biến 1 Tháng Mười Một 1963, Anh em Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm bị sát hại dă man trên chiếc Thiết Vận Xa, từ Chợ Lớn về Bộ Tổng Tham Mưu. Dương Văn Minh lên nắm quyền Chủ Tịch Hội Đồng QLVNCH, ra lệnh đ́nh chỉ chương tŕnh chỉnh trang thủ đô, đồng thời giải tỏa và dẹp bỏ các Khu Dinh Điền và Trù Mật của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Sự kiện trên đă làm hỏng chiến lược giảm dân thành phố và trên hết cô lập Việt Cộng trà trộn sống bám vào dân, tạo cơ hội cho cộng sản trở lại nằm vùng và len lỏi vào dân đang sống tại các Ấp Đời Mới (Tân Sinh), sau khi bỏ hết các ṿng rào chiến lược, pḥng thủ.





Sau 3 năm (1963-1966) xáo trộn chính trị v́ nạn loạn tướng, kiêu tăng và cha cố ông trời, làm cho t́nh h́nh cả nước cũng như tại thủ đô nát bét v́ sự tranh giành quyền lực của mọi phe nhóm, tạo cơ hội cho VC hồi sinh, đánh phá khắp nơi, khiến cho dân chúng nông thôn bồng bế chạy về các thị trấn, tỉnh lỵ và thủ đô lánh nạn, làm cho vật giá leo thang, thất nghiệp trầm trọng, nẩy sinh nhiều tệ đoan xă hội như trộm cướp, giết người, hút xách, đĩ điếm, lấy Mỹ và quân đội Đồng Minh có mặt tại VNCH. Tháng Bảy 1967, Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng Thống Đệ Nhị nền Cộng Ḥa Miền Nam. Từ đó Ông lại tiếp tục sự nghiệp phát triển Thủ Đô như mở mang hệ thống giao thông vận tải, thực hiện chương tŕnh làm đẹp thành phố, xây cát cư xá, nhà ở.





Ngoài ra c̣n xây dựng nhiều xí nghiệp tại Thủ Đức và Khu Kỹ Nghệ Sài G̣n-Biên Ḥa. Về quân sự, để đối phó với cộng sản miền Bắc đang xâm lăng Miền Nam, Tổng Thống Thiệu tiếp tục chiến lược dang dở của Cố Tổng Thống Diệm, qua Chiến Dịch Phượng Hoàng (1969-1970), sau trận Mậu Thân (1968) để b́nh định nông thôn. Nhờ vậy QLVNCH đă đẩy lui VC trở lại rừng núi, mật khu, đồng thời kiểm soát hầu hết dân chúng Miền Nam VN tại Cao Nguyên cũng như miền Đồng Bằng từ Quảng Trị vào tới Hà Tiên. Tăng cường an ninh tại khu Trù Mật, Dinh Điền, Ấp Đời Mới với các lực lượng Địa Phương Quân + Nghĩa Quân + Nhân Dân Tự Vệ và Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn... Cuối cùng Chính Phủ lại tiếp tục chương tŕnh cải cách điền địa c̣n dang dở của Tổng Thống Diệm nhưng vấp phải sự lấn đất dành dân của cộng sản. Do trên Chính Phủ lại phải xây dựng nhiều làng mạc mới trên các Quốc Lộ, để định cư dân chúng trong các vùng xa xôi bị giặc tạm chiếm, khiến đồng ruộng thôn xóm lại bị bỏ hoang, v́ nhiều người về các thành phố sinh sống, lánh nạn.





Tóm lại từ ngày độc lập (Tháng Bảy 1954) cho tới cuối Tháng Tư 1975, dù bị Hồ Chí Minh và cộng sản đệ tam quốc tế xâm lăng phá hoại không ngừng nhưng chính phủ VNCH, cũng đă cố gắng kỹ nghệ hóa đất nước, mở rộng các xí nghiệp khắp nơi tại thủ đô, nhất là ngành dệt và chế biến thực phẩm, hóa học, dược liệu, điện và các loại máy móc.. với số lượng thống kê là 8132 cỡ sở lớn nhỏ.





Sài G̣n cũng là nơi tập trung tất cả cơ quan đầu năo của chính phủ như các bộ, quốc hội, ṭa đại sứ của các phái bộ ngoại giao. Tính đến cuối Tháng Tư 1975, thủ đô (Sài G̣n-Chợ Lớn-Gia Định) với tổng số trên 4 tiệu dân, là một trong những thành phố đẹp đẽ tráng lệ nhất thế giới, là một thị trường tiêu thụ to lớn nhất VN v́ có một đại giang cảng thuận lợi, với số hàng hóa xuất nhập lên tới 7.5 triệu tấn hằng năm, đó là chưa kể tới Tân Cảng và Giang Cảng nhập Xăng Dầu tại Nha Bè. Thủ đô Sài G̣n c̣n có phi cảng quốc tế Tân Sơn Nhất, vô cùng tấp nập với hơn 1,070,000 hành khách đi về (năm 1970) với đầy đủ các hăng hàng không quốc tế, nên được mệnh danh là Chicago Châu Á. Riêng Hàng Không VN đảm trách các đường bay quốc nội, tại các phi trường tối tân vừa được thiết lập ở Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Pleiku, Ban Mê thuột, Đà Lạt, Nha Trang, Tháp Chàm, Phan Thiết, Biên Ḥa, Vũng Tàu, Cần Thơ, Phú Quốc, Mỹ Tho...





Sài G̣n là vậy đó, VNCH là vậy đó, thảm thay tất cả bị sụp đổ hoàn toàn vào trưa ngày 30 Tháng Tư 1975, qua lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh.









Thành Hồ (Tháng Năm 1975-Tháng Năm 2008), cái ǵ cũng có









Ngay khi Sài G̣n vừa lọt vào tay giặc, Tháng Năm 1975 VC lập Ủy ban quân quản thủ đô và Ủy ban cách mạng tại các tỉnh, ra lệnh phong tỏa ngân hàng và chiếm đoạt tất cả các xí nghiệp cả nước, công hay tư, từ lớn tới nhỏ. Bắt đầu từ đó, các xí nghiệp được điều hành bởi một thành phần quản lư mới, gồm toàn cán bộ cộng sản miền Bắc hay tập kết. Riêng chủ nhân thực sự của xí nghiệp th́ giữ vai tṛ ‘cố vấn kỹ thuật’. Đồng thời ra lệnh kiểm kê hết các cơ sở công nghiệp nhỏ và nhà buôn nhưng ác liệt nhất vẫn là hai đợt cướp của, qua cái danh từ mỹ lệ: Đánh Tư Sản Mại Bản.





Vào Tháng Chín 1975, VC ra lệnh bắt giam hay quản thúc tại nhà, tất cả đại kỹ nghệ gia, thương gia, chủ cao ốc, khách sạn, nhà hàng, nhà in, tiệm sách báo... tất cả hơn 100 người. Họ bị đuổi ra khỏi cửa, sau khi toàn bộ tài sản gồm nhà cửa, xí nghiệp, xe cộ, tiền bạc vàng ngọc.. bị đảng trấn lột hết. Đồng lúc là đợt đổi tiền đầu tiền. Cũng từ đó đồng bạc VNCH không c̣n giá trị và được đổi thành tiền Mặt Trận, tối đa mỗi gia đ́nh được 200 đồng (tương đương 100,000 tiền VNCH). Theo VC, miền Nam lúc đó có hai loại tư bản là Tư sản thương nghiệp bao gồm đại thương gia, trung thương gia, chủ tiệm ăn. được đảng gán tội bóc lột nhân dân, đầu cơ tích trữ để trục lợi, nên phải có tội. C̣n giới buôn bán nhỏ và các tiểu công nghệ... là thành phần sản xuất có ích cho xă hội chủ nghĩa nhưng cũng phải được cải tạo để theo đúng đường lối của chế độ đề ra.





Từ Tháng Ba đến Tháng Năm 1978, để tiêu diệt và xóa sổ những ǵ c̣n lại của nền kinh tế VNCH trước năm 1975, VC lại đánh tư bản miền Nam đợt 2 vào ngày 23 Tháng Ba 1978, vô cùng qui mô và ác liệt, chẳng những tại thủ đô Sài G̣n, mà ở khắp các thành thị từ vĩ tuyến 17 vào tận Cà Mâu, Rạch Giá, Hà Tiên. Lần này coi như vĩnh tuyệt, v́ tất cả tài sản của người miền Nam, từ tiền bạc, vàng ngọc, nhà cửa, cơ sở thương mại, lều nước mắm, nhà máy xay lúa, ghe thuyền đánh cá, xe đ̣, xe vận tải và các loại xe nhỏ.. đều bị đảng cướp giựt, tịch biên một cách công khai.





Tàn nhẫn hơn, đảng c̣n ra lệnh cho những nạn nhân tay trắng này, trong ṿng một tháng phải ra khỏi Sài G̣n, để đi kinh tế mới. Riêng tại Sài G̣n, tính đến ngày 3 Tháng Năm 1978 đă có hơn 30,000 người, bị đuổi khỏi mái ấm gia đ́nh và nơi chôn nhao cắt rốn, để vất vưởng tha phương tới các vùng gọi là kinh tế mới, được thiết lập sát biên giới Việt-Miên trong các tỉnh Tây Ninh, B́nh Long, Phước Long,An Xuyên, An Giang, Đồng Tháp Mười, Châu Đốc Lâm Đồng... hay gần hơn nếu c̣n chút tiền chạy chọt, sẽ được đưa tới các nông trường tập thể Lê Minh Xuân, Nhị Xuân, Thái Mỹ, Phạm Văn Cội 1 và 2, ở Củ Chi và Hậu Nghĩa.





Tóm lại ở đâu đồng bào cũng lâm vào tuyệt lộ, dù là công nhân tại các nông trường với đồng lương chết đói. Riêng chủ nhân xe đ̣, ghe bầu, tàu đánh cá, xe vận tải... được xem là thành phần tư sản dân tộc nên trở thành xí nghiệp công tư hợp doanh nhưng do nhà nước quản lư, cán bộ đảng làm giám đốc, c̣n người chủ thật sự, th́ lên chức cố vấn kỹ thuật. Tuy nhiên giới này c̣n được chút an ủi, là được cho phép ở lai thủ đô, có hộ khẩu tem phiếu và hưởng qui chế công nhân viên nhà nước, từ 60-85 đồng bạc Hồ. Có một ít được lănh lương đồng hóa chuyên viên, lương 105 đồng. Nhưng lở hết rồi, có không muốn cũng đành chịu. Sau rốt là những người buôn bán nhỏ, được đảng cho hành nghề trong các khu vực tập trung, với giá cả đă có sẵn.





Ngày 25 Tháng Tư 1978, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đă kư một nghị định tuyệt mật, mang số 78, quyết định thống nhất tiền tệ cả nước và được thi hành bắt đầu ngày 3 Tháng Năm 1978. Cũng Phạm Văn Đồng kư thêm một nghị định ngày 31 Tháng Ba 1978, băi bỏ tư thương chuyển vận hàng hóa từ nông thôn ra thành thị. Chính sách bế quan tỏa cảng, phong tỏa thành phố này, với mục đích làm tê liệt giao thông giữa các tỉnh, chia các vùng đất ở miền Nam của VNCH thành các quốc gia riêng biệt.





Tất cả theo đúng đề cương định hướng của Lê Duẩn, muốn biến mỗi huyện là một đơn vị kinh tế thời b́nh và là một Xô Viết Nghệ Tĩnh, một đơn vị chiến đấu trong thời loạn. Nhưng trên hết là phải cô lập thủ đô Sài G̣n với các tỉnh miền Nam, qua thiên la địa vơng kiểm soát trên bộ cũng như đường thủy. Tóm lại chỉ mới mấy năm Sài G̣n bị mất tên, VC đă đạt được mục đích cách mạng, là bần cùng hóa giới tư sản thủ đô, ăn mày hóa cả miền Nam, hủy bỏ nên kinh tế thị trường để thay thế bằng chính sách kinh tế hoạch định quốc doanh đem từ miền bắc vào. Kết quả tất cả hàng hóa và sản phẩm tại các tỉnh thị ngoài Sài G̣n, bị ứ đọng v́ không xuất tỉnh được nên cuối cùng phải bán tháo đổ, rẻ mạt cho NHÀ NƯỚC. Từ đó đảng lại chở những thứ này về Sài G̣n, bày bán trong các cửa hàng, xí nghiệp, khu chợ của đồng bào vừa bị tịch biên, với sự độc quyền.





Nhưng vỏ quưt dầy có móng tay nhọn, kẻ cướp luôn gặp bà già, đó là một chân lư. VC độc ác, bất lương, bạo tàn nhưng lại quá ngu si, luôn tưởng mọi người im lặng trước hành động thảo khấu của đảng và cán bộ, là đă đồng t́nh và sợ chúng. V́ vậy chúng lại càng tham lam, hấp tấp, đem các luật lệ rừng rú thú vật của cái gọi là xă hội chủ nghĩa, cùng với chính sách tập thể hóa cưỡng bách đất đại, để khống chế và nắm độc quyền kinh tế của người miền Nam ở thành thị cũng như nông thôn.





Tức nước vỡ bờ, VC bị dội ngược vào tường, v́ gặp phải sự chống đối của toàn thể đồng bào VNCH, chẳng những tại Sài G̣n-Chợ Lớn mà ngay cả nông thôn miền Nam. Hậu quả nông dân không bán nông sản cho đảng theo gia rẽ mat, khiến cho hệ thống thương nghiệp quốc doanh sập tiêm v́ khan hiếm nhu yếu phẩm, làm cho giá cả tăng vọt. Một sớ lớn nông dân tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, nại lư do sưu cao thế nặng, nên tự ư bỏ ruộng đất hoang không thèm canh tác. Do trên nạn chợ đen, chợ trời phát triển khắp nơi với t́nh trạng lạm phát, dù khắp nơi đầy nghẹt các trạm kiểm soát nhưng hàng chui từ ngoài vẫn đổ về Sài G̣n, đủ cả gạo thịt cá rau quả, v́ đă móc ngoặc, hối lộ, bỏ chân với công an và cán bộ địa phương...





T́nh trạng dân đói lại càng bi thảm hơn, trước thảm cảnh của những gia đ́nh bị đuổi lên vùng kinh tế mới, nhất là ở các chốn ma thiêng nước độc sát biên giới Việt-Miên, do đói rách, tật bệnh, nên lại liều chết quay về Sài G̣n, sống cảnh đầu đường xó chợ. Trong số này, phần lớn là thành phần quân, công, cán, cảnh và cả thương phế binh VNCH. V́ CS Hà Nội luôn coi Miền Nam như một thuộc địa, nên khi vào được Sài G̣n nhờ may mắn, đă vơ vét hết các chiến lợi phẩm về Bắc, kể cả những nguyên vật liệu rất cần thiết cho sự phát triển nền công kỹ nghệ VN. Từ sau năm 1977, hầu hết các cơ sở công kỹ nghệ luyện kim, dệt, chế biến thực phẩm tại Sài G̣n và vùng phụ cận, lâm vào t́nh trạng khủng hoảng trầm trọng v́ nguyên liệu đă kiệt quệ. Đây cũng là thời gian VC bị thế giới bên ngoài, từ Mỹ, Trung Cộng, Nhật, các nước trong Hiệp Hội Đông Nam A... cho tới Ấn Độ, Liên Âu.. tẩy chay và quay mặt, trước những hành động thực dân trong nước, cũng như đă công khai làm nô lệ cho Liên Bang Sô Viết tại Châu Á.





Ngày 9 Tháng Sáu 1980, Trương Như Tảng bộ trưởng ma trong chính phủ dỏm, của cái mặt trận ba làng GPMN, chạy thoát ra ngoài, tới Ba Lê họp báo, tố cáo cộng sản Hà Nội tham tàn bạo ác, ngu dốt rừng rú, nên chỉ mới một thời gian ngắn cai trị Miền Nam, đă làm cho Sài G̣n sụp đổ toàn diện về kinh tế, thiếu thốn lương thực và tệ nạn tham nhũng bất công cửa quyền, đă khiến cho hầu hết các công ty hợp doanh c̣n lại khánh tận v́ thuế theo luật rừng. Cũng nhờ đảng quyết tâm cải tạo kinh tế, mà dân nghèo càng nghèo, bất công bất b́nh đẳng xă hội càng trầm trong gấp trăm lần trước ngày 30 Tháng Tư 1975, v́ sự ham muốn hưởng thụ vất chất tiện nghi, của cán bộ đảng từ trên xuống dưới, nghĩa là chỉ cần có tiền đút lót, th́ việc ǵ cũng tốt, cũng xong.





Để lấy lại niềm tin cứu đảng, ngày 3 Tháng Hai 1980, nhân kỷ niêm thành lập 50 năm đệ tam cộng sản quốc tế, tổng bí thư Lê Duẩn đ̣i diệt trừ nạn tham nhũng, hối lộ, lạm quyền và hứa tận diệt, qua chính sách ‘ba lợi ích’, lại tạo cơ hội thêm cho cán đảng tham ô lộng quyền, móc ngoặc với gian thương đem hàng hóa trong các cửa hàng quốc doanh bán ra thị trường chợ đen. Ba Tàu Chợ Lớn lại trỗi dậy, đóng vai trung gian các nghiệp vụ mua bán chui, giữa các Ba Tàu Hồng Kông, Đài Loan, Thái Lan, Tân Gia Ba, Mă Lai, bằng cách chở hàng hóa bằng thuyền tàu tới tận hải phận VN, để đổi chác vàng, mỹ kim hoặc các thổ sản VN như gạo, tôm cá đông lạnh... Nhờ các dịch vụ chui béo bở này, mà các cán đảng giàu to nhanh chóng, trở thành những tư bản đỏ, trong xă nghĩa thiên đường. Cuộc dành ăn, đă khiến hai phe đảng giáo điều và đảng canh tân, thanh toán công khai đẫm máu tại Sài G̣n, làm Bắc Bộ Phủ phải xét lại v́ đă nóng mặt, trong cảnh trâu cột nh́n trâu ăn, cũng thấy thèm.









Chiến cuộc đẫm máu, giữa Tư Bản Đỏ Hà Nội và Sài G̣n:









Cuộc đối đầu giữa hai nhóm tư bản đỏ Hà Nội và Sài G̣n, thật sự đă bùng nổ, sau kỳ đại hội đảng lần thứ V (27-31 Tháng Ba 1982), qua nhiều thay đổi chính trị nội bộ, khiến thủ tướng Phạm Văn Đồng, lại phải cải tổ nội các lần thứ ba (1980-1982), có 6 cán bộ trung ương đảng bị loại khỏi bộ chính trị, trong số này có Nguyễn Lam, Trần Phương, Đinh Đức Thiện,Nguyễn Thành Thơ và Vơ Nguyên Giáp. Riêng Vơ Văn Kiệt bị bứng gốc Thành Ủy Thành Hồ, về Hà Nội ngồi chơi xơi nước, trong chức vụ phó thủ tướng kiêm chủ tịch ủy ban kế hoạch nhà nước, kể cả tướng công an Mai Chí Thọ (mới theo bác về chầu tổ Mac-Lê) cũng bị lung lay địa vị.





Phó Thủ Tướng Đỗ Mười được đảng giao thi hành chính sách sửa sai tại thành Hồ, với nhiệm vụ đánh tư sản thương nghiệp, trừng trị cán đảng hủ hóa tham ô, bắt đầu thi hành vào Tháng Năm 1983. Mục đích cũng chỉ là triệt tiêu các cửa hàng IMEX tại các quận trong thành Hồ, v́ lúc đó tất cả hàng hóa xuất nhập đều do cửa hàng trung ương IMEX tại đường Nguyễn Huệ độc quyền. Cùng lúc Hà Nội ban hành nhiều sắc thuế nặng nề, đánh vào giới tiểu thương tại Chợ Bến Thành và các khu thương mại trong Quận Nhất, khiến cho nhiều cơ sở phải sập tiệm như Nhà Hàng Chí Tài, Tài Nam, Paris, Cola... đành hiến cho đảng, sau đó thành công ty hợp doanh.





Độc hiểm hơn, Đỗ Mười c̣n mở chiến dịch đánh giới tư thương bán lẻ, hàng rong trên vệ đường, viện cớ chỉnh trang thành phố. Đối với đồng bào có thân nhân nước ngoài, Đỗ Mười ban lệnh hạn chế số quà cáp và qui định tiền nhận được, phải bỏ vào quỹ tiết kiệm. Hành động quái quỷ này, khiên cho ngoại viện của Việt kiều tụt giảm trầm trọng, v́ không ai muốn của mồ hôi nước mắt, lọt vào tay đảng. Trong dịp này Đổ Mười đă thanh toán được nhiều ngàn tư bản đỏ, trong đó cộm nhất có giám đốc xí nghiệp liên hiệp Cửu Long,bị tịch thu trên 20 kư lô vàng ṛng. Cùng với nhiều cán đảng cao cấp tham ô trong các cửa hàng IMEX như Cholimex, Sidimex,Gidimex...





Mặc kệ cho đồng bào cả nước bất măn v́ sưu cao thuế nặng, lạm phát, khan hiếm thực phẩm, thất nghiệp và tham ô càng lộng hành, Hà Nội vẫn theo đúng đường hướng Tân Chính Sách (NEP) của Liên Xô đề ra, ban hành nghị quyết của bộ chính trị trong phiên họp ngày 17 Tháng Mười Hai 1984 để tập thể hóa đất đai miền Nam và kiểm soát tư thương. Thêm vào, là nghị quyết số 8-1985,băi bỏ chế độ bao cấp, ấn định lại giá hang quốc doanh gần bằng giá tại thị trường.





Cuối cùng là Đổi Tiền Mới lần thứ ba, vào ngày 14 Tháng Chín 1985, làm cho tiền Hồ lần nữa bị phá giá tới 90%, so với tiền trước. Đây cũng là cơ hội để đảng Việt Cộng có cơ hội vàng ṛng, đẻ ra chính sách buôn bán nô lệ mới trong thế kỷ XX, một mặt đảng đầy ải đồng bào mạt rệp v́ bị cướp cạn tài sản qua ba đợt đánh tư sản và đổi tiền, tới các vùng đất ma thiêng nước độc, trên cao nguyên và sát biên giới để mở các đồn điền cao su, trà, cà phê được trả bằng lương công nhân viên chết đói. Nhưng quan trọng nhất là xuất người làm vật lao động, để đổi lấy ngoại tệ tại các nước Liên Xô, Đông Đức, Tiệp Khắc... mà theo thống kê đă có tới cả trăm ngàn người. Tuy nhiên tất cả kế hoạch của đảng hầu như thất bại hoàn toàn, dân chúng nghèo Sài G̣n vẫn bám trụ tại chỗ, mua hàng chui tại chợ trời chợ đen để sống, mà không cần vào tem phiếu tại cửa hàng quốc doanh. Nền kinh tế chợ trời-chợ đen phát triển lên tận mây xanh, giúp cho người nghèo tại thủ đô cũng như các thành phố lớn khác của miền Nam, không thèm đi kinh tế mới, mặc cho công an bộ đội hù dọa, bắt bớ và khủng bố.









Sài G̣n bây giờ cái ǵ cũng có









Như lời Tú Trinh quảng cáo, Sài G̣n bây giờ, qua danh xưng Thành Hồ cái ǵ cũng có, sau khi đảng VC lâm vào đường cùng ngay lúc thành đồng xă nghĩa Liên Xô và Đông Âu tan ră và sụp đổ, cúp hết nguồn viện trợ nuôi sống Bắc Bộ Phủ. Đói và gần chết, nên đảng VC đành mở cửa, trải thảm đỏ chẳng những qú rước tư bản đỏ trắng, mà ngay cả kẻ thù không đội trời chung là Hoa Kỳ và Người Việt ti nạn khắp thế giới, một thời từng bị Hà Nội phỉ báng, chửi bới là những thành phần phản quốc, cặn bă của xă hội, trốn ra nước ngoài gái th́ làm điếm, trai ăn cướp lưu manh, đâu có chừa ai, dù là kỹ sư, bác sĩ, tướng tá, nhà văn, nhà báo, kể cả sư cha và me Mỹ-Pháp...





Cũng nhờ mở cửa cứu đảng, mà từ năm 1990 tới nay, thành Hồ không những hóa rồng mà là xứ cáo, tưng bừng nhảy vọt qua tuyên truyền trên báo đảng và những luận điệu tâng bốc bợ đít của một vài tờ báo Việt ngữ và đài ngoại quốc có chương tŕnh tiếng Việt, la làng quảng cáo giùm cho đảng VC, nào là năm du lịch, năm vận động ngoại giao, năm điện khí hóa, năm thanh lọc hành chánh, năm chấn chỉnh kinh tế... rồi năm đối tác và giao lưu của Việt kiều sau khi đă đi hết biển...





Nhưng tất cả những người về nước thăm nhà, kể cả những người già gần xuống đất, cũng ráng trở lại quê hương thứ hai để hưởng trợ cấp và tiện nghi, chứ có ai ngu ở lại ḥa hợp, ḥa giải với VC để bị tham nhũng bóc trơ xương thịt? Sài G̣n là thiên đàng hạ giới của những Việt Kiều tị nạn CS, một thời liều chết bỏ nước ra đi tới xứ người, qua bao năm cầy tóe lửa, làm hộc máu, t́m đủ mọi cách lường gạt chính phủ lẫn đồng hương để có nhiều tiền, rồi vai vác bị bạc lẻ kè, ngạo nghễ như Simonov hay Don Quichotte, to tiếng rằng ta là Việt Kiều, ăn chơi xả láng, vung tiền qua cửa sổ, tại các ṣng bạc ôm, karaoké hít, matxa lắc, hớt tóc đôi... cho tới khi bị trất lột sạch túi. Lúc đó Việt Kiều ta lại trở lại Mỹ và mọi nẻo đường hải ngoại, tiếp tục cầy, gạt, khóc lóc với các chính phủ bản địa để có tiền tiếp và trở lại quê nhà., vung tiền qua cửa sổ, trả thù dân tộc, mà trước khi được vượt biển t́m tự do, không có dịp.





Và như thế thành Hồ cái ǵ cũng có, bách chiến bách thắng lừng lẫy nhất vẫn là nạn băng đảng Mafia VC, đứng đầu là chủ soái Nam Cam nghe nói đă bị tử h́nh tại pháp trường Thủ Đức, vào một buổi sáng mịt mù sương khói, tử tội bị trùm đầu, c̣n dân chúng chứng kiến th́ đứng nh́n rất xa, nên có ai biết đâu mà ṃ? Băng đảng trộm cướp hoành hành cả nước, chẳng những tại Hà Nội mà ngay tại Sài G̣n, nơi nào cũng có và đây là một trong những tai ương thảm khốc nhất trong cận sử thời Hồ. Nhờ sự bao che của cán đảng, từ trung ương xuống tới khu phố, Sài G̣n có tới 39 băng đảng trộm cướp, suốt ngày kiểm soát sinh hoạt của người dân lương thiện, khắp phố phường, xí nghiệp tới các trung tâm buôn bán tại các chợ Bến Thành, Bàn Cờ, Ḥa Hưng, Xóm Củi,Kim Biên, An Đông, Thị Nghè, G̣ Vấp, Tân Định.. các bên xe Miền Trung,Lục Tỉnh, B́nh Triệu, Chợ Lớn... và đối tượng chính là Việt Kiều, Ngoại Kiều.





Thành Hồ nói riêng, đảng VC nói chung ngày nay, đứng đầu thế giới về quốc nạn tham nhũng, như Phạm Trần đă viết ‘tham nhũng VN nay thở ra như khói’. Tham nhũng dám bán cả đất biên giới, lănh hải, đảo và vận mệnh của dân tộc Hồng Lạc cho Trung Cộng, Nga, Mỹ, bọn tàu trắng, Nhật, Đại Hàn, Liên Ấu, Thái Lan... để lấy vàng bạc chuyển ra ngoại quốc, chờ ngày đổi đời sắp tới, có được đời sống an nhàn như bọn khoa bảng trí thức, chính trị gia, tướng tá VNCH, đâm sau lưng QLVNCH, trốn chạy ra ngoại quốc trước ngày miền Nam thất thủ 30 Tháng Tư 1975.





Vơ Văn Kiệt rồi Phan Văn Khải, từng được Lê Duẩn, Đỗ Mười giao trách nhiệm thanh tra và bài trừ tham nhũng nhưng làm sao dẹp được v́ tham nhũng là do bọn chúng bày ra và nếu không nhờ vào những tệ đoan này, ngày nay các cán cao cấp đảng trong Bắc Bộ Phủ, mà danh sách giàu nhất thế giới vẫn là Vỏ Văn Kiệt, Đỗ Mười, Phan Văn Khải, Trần Đức Lương, Lê Đức Anh, Nguyễn Tấn Dũng, Nông Đức Mạnh, Tôn Nữ Thị Ninh, Nguyễn Minh Triết.. và ‘ bác’Năm Cam, nghe nói đă chết nhưng vàng ngọc đô la đă chuyển hết ra nước ngoài.





Thành Hồ hiện nay đang bách chiến bách thắng trước con sốt Karaoke, Parabol, phim Sex, bán buôn bằng cấp giả và những quảng cáo du lịch, cái ǵ cũng có. Sài G̣n trước Tháng Tư 1975 là nơi buôn Phật bán Chúa, nhờ vậy cọng sản đệ tam mới có cơ hội nhuộm đỏ hoàn toàn VN. Thành Hồ sau Tháng Nă, 1975 là thị trường tiêu thụ cổ vật VN và là chốn kinh doanh thân linh, ma quỉ, có như vậy đảng mới lập chùa để đúc tượng Hồ Tặc đem lên bàn thờ, ngồi chễm chệ chung với Phật, Đức Quốc Tổ Hùng Vương.





Tại Huế, qua những danh từ hoa mỹ như Festival hay trùng tu, để có cớ phá hoại và ăn cắp cổ vật trong thành nội, thời vua Gia Long và Minh Mạng nhà Nguyễn. Thủ phạm trộm đồ cổ chính là Nguyễn Khoa Thanh (chủ tịch UBND Huế). Đây là những cổ vật lịch sử của dân tộc, được cán bộ trong đội kiểm kê tẩu tán, rồi đem bán cho một công ty Ḥa Lan có tên Recherches Historis, trong những ngày đấu giá vào tháng 4-1994, với 239 món hàng trị giá 5 triệu đô la nhưng bán vội vàng, đổ tháo nên chỉ có 56.000 $ US. Sự kiện trên đă làm cho cơ quan UNESCO thất vọng và bất lực nhưng ai làm ǵ được VC? nay qua bệ dựa vững chắc của siêu cường Mỹ. Ma túy từ Tam Giác Vàng, được Hà Nội thông đồng với Lào Cộng, để liên hệ với trùm Khum Sa, qua phương tiện của bộ đội công an biên pḥng, chuyển thẳng tới Đà Nẵng, để phân phối khắp các nước Đông Nam Á và tràn ngập thành Hồ.





Nghèo đói tuyệt vọng, đă đẩy mọi tầng lớp đồng bào vào cuối đường hầm, nên họ chỉ c̣n biết tin vào những may rủi cuộc đời, như rủ nhau đi t́m vàng ở Hiếu Liêm (Phước Long), Tà Pao (B́nh Tuy), Ba Thê (An Giang)... để mong một sự đổi đời. Đây cũng là cơ hội để cho bọn kinh doanh thần thánh ma quỉ hốt bạc, qua những màn thông điệp, phán quyết, sấm truyền. Trong khi đó đâu đâu cũng có những ông bà cô cậu, thần thông quảng đại, chuyên môn chữa bệnh bằng bùa phép, qua các bậc tu hành lừng danh như Đại Đạo Tiên Cô, Thầy Bùa, Thầy Mo, Thầy Tư Nước Lạnh... thầy cô nào tiếng tăm cũng lừng lẫy, chẳng những ở thủ đô mà c̣n vang dội cả nước. Tất cả đều là sản phẩm của thời mở cửa đổi mới, khiến cho người dân chẳng những đói lạnh mà c̣n mất hết niềm tin cuộc đời, nên phần lớn bị bệnh tâm thần, mộng du, tỷ lệ người bệnh chỉ thua A Phú Hăn mà thôi.





Tóm lại thành Hồ ngày nay cái ǵ cũng có, xoay tṛn qua 3,500 dịch vụ với những bàn tay nối dài, chằng chịt không khác ǵ hệ thống đường ṃn mang tên ‘bác’ ngày xưa. Đă cướp cạn hết tài sản của miền Nam trong nước, qua ba đợt đánh tư sản và đổi tiền, đảng VC qua Đổ Mười, c̣n bày ra chiến dịch ‘kiều hối’, theo pháp lệnh kư ngày 22 Tháng Chín 1993 để móc túi mấy triệu nạn nhân, v́ đảng phải vượt biên vượt biển tị nạn sống đời lưu vong khắp mọi nẻo đường thế giới. Nhưng muốn là một chuyện, nên dù VC đă lập nhiều cơ sở kinh tài ở hải ngoại như Vinexco, Far East Express, VN Express.. để móc nối tuyên truyền đồng bào nhưng phần lớn hằng tỷ bạc, được gởi về nước cho thân nhân qua con đường chui., chứ đâu có ai ngu gửi chính thức, để đóng cho đảng tới 4 loại thuế?





Thua bài cào, VC gở me qua ngành du lịch mà cao điểm bắt đầu từ năm 1995, với sự hợp tác của các công ty du lịch ngoại quốc như EW và A.I.O tour (Japan), Đài Loan... trụ sở đặt tại Imex cũ, đường Nguyễn Huệ, đă bị cháy ngày 14 Tháng Mười 1991. Kèm theo trong dịch vụ béo bở này của Hà Nội, là dịch vụ kinh doanh phim SEX. Trong khi đó, thành Hồ cũng tưng bừng nạn tẩu tán vàng, đô la trong nước, ra ngoại quốc nhất là các nước Đồng Nam Á, qua các cửa khẩu ở biên giới Hoa Việt, Nghệ An, Tây Ninh, Long An, Châu Đốc... tất cả đều của bọn tư bản đỏ, cán bộ gốc, chuyển ra ngoại quốc rữa thành tiền sạch, trước khi gửi tiếp vào các ngân hàng quốc tế... nhất là Thụy Sĩ hay chuyển ngân cho Việt kiều tại Hoa Kỳ, Úc, Canada, Châu Âu... để mở tiệm vàng, ra báo, mở đài phát thanh, tàu đánh cá, mua nhà.. Rồi th́ những dịch vụ làm giấy tờ giả mạo, trong các chương tŕnh ODP, HO, Con lai, kết hôn... tràn lan khắp Miền Nam, nhất là tại thành Hồ... giúp cho một số lớn can bộ và gia đ́nh Việt Cộng, sau khi tham nhũng tom góp được một tài sản lớn, mua giấy tờ giả mạo, cưới vợ chồng giả, để trốn ra hải ngoại hưởng thụ...





Phú quư sinh lễ nghĩa, giàu có th́ phải xài tiền, không những chỉ có cán đảng, tư bản đỏ, bọn thương buôn tư bản ngoại quốc, mà cả Việt Kiều bôn phương về, vung tiền qua cửa sổ, để phanh thây xé xác những người con gái, đàn bà nghèo vô tội VN, v́ tiền phải bán thân cho thú vật tại các tụ điểm ăn chơi hay trá h́nh ở các khách sạn hạng sang Bông Sen, Bến Thành, Cửu Long, Hướng Dương, Hải Âu, Hoa Sen, Lê Lai, Hữu Nghị... đồng lúc với những trung tâm du hí B́nh Quới 1-2, Đầm Sen, Hồ Kỳ Ḥa và Suối Tiên. Nơi nào dù ở trong khách sạn hay ngoài trời, đảng qua thân xác của người phụ nữ VN, tha hồ trấn lột những con thiêu thân, quyết ḷng vung tiền, để trả thù dân tộc.





Thành Hồ cái ǵ cũng có mà bó tay không thể giải quyết được, vẫn là tham nhũng, tệ doan xă hội và nạn nhân măn. Để giải quyết, đảng theo Mao-Đặng-Giang-Hồ, ban hành chính sách cai đẽ, từ sau trận mùa hè đỏ lửa 1972, do Đại Tướng Anh Hùng Điện Biên là Vơ Nguyên Giáp phụ trách, qua hàm Phó Thủ Tướng đảng VC. Theo lệnh, mỗi gia đ́nh chỉ được tối đa 2 con, sau đó được phá thai hợp pháp. Đối với Hoa kiều từ trước tới nay tại thủ đô, vẫn sống riêng biệt như một nước khác nước VN, ở Chợ Lớn theo thống kê năm 1958 đă có 600.000 người, chiếm tỷ lệ 75% Hoa Kiều cả nước. Sau ngày 30 Tháng Tư 1975, Hoa Kiều Chợ Lớn lập tức phản Đài Loan, theo Trung Cộng để dựa hơi hù VC nhưng vẫn bị đảng hốt sach qua ba lần đánh tư sản và đổi tiền. Sau đó Hoa Kiều càng thê thảm hơn, khi VC và TC trở mặt, một số nghèo bị đi kinh tế mới, trong lúc những kẻ có tiền chung vàng cho đảng để được chính thức xuất ngoại, lên tới 250,000 người, trong đó người Tàu chiếm tới 85%. Nhưng Hoa đi bớt, đă có Liên Xô và các nước Đông Âu đổ xô vào thành Hồ từ năm 1977 nhưng tập trung tại các căn cứ cũ của Mỹ ở trong phi trường Tân Sơn Nhất, kể cả du hư cũng được dành riêng ở các khách sang sang trọng như Cửu Long (Majestic), Thống Nhất (Carevelle), Hữu Nghị (Palace) và Bến Thành (Rex)...





Nhưng Tàu đi rồi Tàu lại về, chẳng những Hoa kiều mà c̣n đủ Tàu trắng, Tàu đỏ. Tất cả đang làm chủ thành Hồ như trước Tháng Tư 1975 đă khống chế mọi sinh hoạt của Sài G̣n. Ba mười hai năm qua, thành Hồ là thế đó, cho nên người Việt dù có thương nhớ Sai G̣n tới đứt ruột, vẫn không ai muốn nhắc tới cái tên Hồ Chí Minh đang hiếp dâm Ḥn Ngọc Viễn Đông, dù biết chắc sớm muộn ǵ thủ đô yêu dấu cũng được mang tên Sài G̣n như tiền nhân ta đă gọi từ hơn ba trăm năm trước.





Ngày 29 Tháng Tư 2008, toàn bộ Bắc Bộ Phủ trải thảm đỏ để đón ‘Đuốc Máu’ của giặc Tàu tới Sài G̣n ra Hoàng Sa, trong sự căm phẫn của đồng bào cả nước. Biết trước là sẽ có biến loạn, nên Nguyễn tấn Dũng đă ra lệnh cấm nhưng ngày mai vẫn chưa tới, nên biết đâu mà ṃ?





Xóm Cồn





Cuối Tháng Tư 2008





Mường Giang





















Trở về đầu trang